Mị nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị coi đó là một cái xác chết đứng. Mị cố tỏ ra thờ ơ nhưng từ sâu thẳm bên trong tâm hồn Mị, Mị đang có sự đấu tranh với chính mình. Mị tuy được đi lại nhưng cũng chẳng khác gì người đang bị trói ở kia. Cũng chỉ là phận đi gạt nợ cho nhà người ta. Mị đồng cảm với A Phủ nhưng Mị lại đấu tranh để coi như A Phủ đã chết. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng Mị không hề nói năng gì. "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Bởi vì tâm hồn Mị đã khép kín và câm lặng rồi. Mặc dù, với ngọn lửa to như thế, hồng như thế cô vẫn cảm thấy lành lạnh, cô đơn. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. 2.Sức sống tiềm tàng của A Phủ Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. - Khi được Mị cắt giúp dây trói cứu thoát, A Phủ đổ ập xuống nhưng anh liền quật sức vùng lên. Sức sống tiềm tàng và lòng khát khao được sống giúp A Phủ chiến thắng nỗi đau thể xác và cả số phận nghiệt ngã để trở thành người tự do. Câu 3: Thành công nghệ thuật - Nghệ thuật kể chuyện thành công. Mỗi ngày khi Mị dậy sớm ra ngồi sưởi lửa, Mị đều hé mắt trông sang và thấy A Phủ bị trói đứng ở đó. Tâm của Mị đã chết, đến sinh mạng của mình còn chẳng quan tâm nữa thì sao Mị lại để ý được đến chuyện của người khác chứ. Linh hồn của Mị sớm đã lụi tàn, chết lặng trong gia đình nhà thống lí rồi. p7Rd. Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A PhủTóm tắt nhân vật Mị siêu ngắn do VnDoc biên soạn bám sát chương trình Ngữ Văn 12 sẽ giúp các em học sinh có thêm tài liệu học tập các văn bản, ôn thi học kì và luyện tập các đề văn lớp 12 có đáp tích nhân vật Mị - Tóm tắtTóm tắt nhân vật Mị ngắn nhất - Bài mẫu 1Tóm tắt nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ siêu ngắn - Bài mẫu 2Tóm tắt nhân vật Mị ngắn nhất - Bài mẫu 3Tóm tắt nhân vật Mị siêu ngắn - Bài mẫu 4Tóm tắt nhân vật Mị siêu ngắn - Bài mẫu 5Tóm tắt nhân vật Mị siêu ngắn - Bài mẫu 6Khái quát về tác giả Tô HoàiKhái quát chung về truyện ngắn Vợ chồng A PhủBản quyền tài liệu thuộc về cấm mọi hành vi sao chép nhằm mục đích thương tắt nhân vật Mị ngắn nhất - Bài mẫu 1Mị là cô gái xinh đẹp lại có tài thổi sáo nên được nhiều chàng trai theo đuổi nhưng cuối cùng lại bị A Sử bắt về nhà trình mà và làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Ban đầu Mị rất đau khổ, tuyệt vọng, tìm đến cái chết nhưng vì thương cha nên tiếp tục sống. Lâu ngày trong cái khổ Mị cũng quen dần, chỉ lầm lũi như con rùa trong xó cửa; không buồn cũng không vui. Năm ấy Hồng Ngài ăn tết muộn, Mị lén uống rượu, trong cơn say Mị như sống lại những ngày trước, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử đánh và trói ở góc nhà. Mị được cởi trói để chăm sóc A Sử khi hắn bị A Phủ đánh. Một lần thấy A Phủ bị trói ở góc nhà và khóc vì làm mất bò, Mị đã cắt dây cởi trói cho A Phủ và theo A Phủ đến Phiềng tắt nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ siêu ngắn - Bài mẫu 2Mị là cô gái tự do, xinh đẹp, có nhiều tài lẻ và được nhiều người theo đuổi. Một đêm, nghe tiếng bước chân ở vách nhà, tưởng người yêu mình, Mị đưa tay ra thì bị A Sử - con trai thống lí Pá Tra bắt đi. Hôm sau, Mị bị trình ma làm dâu nhà thống lí để trả nợ ngày xưa bố mẹ Mị lấy nhau vay tiền của nhà lão. Thời gian đầu, Mị vô cùng phiền muộn, cô luôn nghĩ đến cái chết để được giải thoát, nhưng khi nghe lời cha can ngăn và nghĩ đến hoàn cảnh của cha mình, Mị không nỡ ăn lá ngón tự tử mà quay về tiếp tục làm con dâu gạt nợ. Ngày qua ngày, Mị lầm lũi như con rùa trong xó cửa, hàng ngày lặp đi lặp lại những việc làm như một cái máy, cảm xúc trong Mị bị chai sạn, cô không vui cũng không buồn. Ngày tết, Mị lén uống rượu, khi Mị đã ngà ngà say, tiếng sáo diều đưa Mị về những ngày tươi đẹp trước, Mị thấy bổi hổi bồi hồi, sống lại bao kỉ niệm. Mị quyết định sắm sửa đi chơi nhưng lại bị A Sử bắt và trói đứng ở cột nhà không cho đi. Đêm đến, Mị vẫn miên man trong cơn say nhưng khi tỉnh rượu, Mị thấy đau và sợ. A Sử bị A Phủ đánh, Mị được cởi trói để đi hái thuốc cho chồng, Mị chăm sóc A Sử nhưng còn bị hắn đánh. Mị nghe thấy người ta đánh đập A Phủ, từ đó A Phủ phải làm thuê cho nhà thống lí để trả nợ vì đánh A Sử. Một hôm A Phủ làm mất bò, lại bị nhà thống lí đánh, trói ở góc nhà. Mấy hôm liền, Mị không quan tâm nhưng đến khi thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị động lòng thương cảm, cắt dây cởi trói và cùng A Phủ bỏ trốn đến Phiềng tắt nhân vật Mị ngắn nhất - Bài mẫu 3Mị là cô gái xinh đẹp lại có tài thổi sáo nên được nhiều chàng trai theo đuổi nhưng cuối cùng lại bị A Sử bắt về nhà trình mà và làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Ban đầu Mị rất đau khổ, tuyệt vọng, tìm đến cái chết nhưng vì thương cha nên tiếp tục sống. Lâu ngày trong cái khổ Mị cũng quen dần, chỉ lầm lũi như con rùa trong xó cửa; không buồn cũng không vui. Năm ấy Hồng Ngài ăn tết muộn, Mị lén uống rượu, trong cơn say Mị như sống lại những ngày trước, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử đánh và trói ở góc nhà. Mị được cởi trói để chăm sóc A Sử khi hắn bị A Phủ đánh. Một lần thấy A Phủ bị trói ở góc nhà và khóc vì làm mất bò, Mị đã cắt dây cởi trói cho A Phủ và theo A Phủ đến Phiềng tắt nhân vật Mị siêu ngắn - Bài mẫu 4Cha mẹ Mị lấy nhau thiếu tiền nên phải vay nhà thống lí. Sau này khi Mị lớn lên xinh đẹp đã bị A Sử - con trai thống lí Pá Tra bắt về trình ma làm dâu gạt nợ. Mị đau khổ, tìm cách tự vẫn nhưng được cha can ngăn nên tiếp tục sống như một cái xác không hồn, hằng ngày làm việc như một cỗ máy, một người ở. Trong đêm tình mùa xuân, Mị uống rượu say và nhớ về những ngày còn tự do. Mị tính đi chơi thì bị A Sử đàn áp. Mị được một người phụ nữ trong nhà cởi trói để đi hái thuốc và chăm sóc chồng khi hắn bị A Phủ đánh. Một thời gian sau, A Phủ làm mất bò nhà thống lí bị bắt trói ở góc nhà và bỏ đói, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, thương tâm nên cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ đến Phiềng Sa, sau này đi theo Cách tắt nhân vật Mị siêu ngắn - Bài mẫu 5Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra là một cô gái xinh đẹp và tài hoa. Mị có một tình yêu trong sáng. Cô gái chăm chỉ, cần cù, hiếu hạnh, khát khao được sống tự do, không tham cuộc sống sang giàu, rất ý thức về nhân cách của mình. Một đêm khuya Mị nghe tiếng gõ vách, Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, Mị bị bắt cóc về làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra để trừ số nợ bố mẹ từ ngày bố mẹ Mị lấy nhau mượn nhà hắn. Họ nhốt Mị vào buồng, cúng ma làm dâu. Mị lâm vào một tình cảnh éo le, bất hạnh, bị tròng bởi dây trói “con nợ bắt buộc” và “con dâu bị ép buộc”. Những ngày đầu làm dâu Mị buồn tủi, đau khổ, rất đơn độc và thấm thía nỗi đau của một người con gái bị cướp đoạt. Mị đã trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, định tìm cái chết để tự giải thoát mình nhưng vì lòng hiếu thảo, thương bố nên Mị đã cố gắng chịu đựng, dũng cảm quay trở về nhà thống lí. Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị sống lầm lũi, âm thầm, trở thành người nô lệ cam chịu, nhẫn nhục đến mức tê liệt cả ý thức, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh. Mị sống cuộc sống lặng lẽ, âm thầm, không sinh khí với những dấu hiệu sự sống mất dần trong cô không nói, không cười, không nhớ, chỉ buồn rười rượi,… Hồng Ngài năm ấy ăn tết muộn vào lúc gió và rét rất dữ dội. Tiếng sáo đã thức tỉnh tâm hồn, sức sống của Mị. Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa ở phía trong vách. Mị bị A Sử đàn áp thô bạo. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng một con ngựa… Sáng tỉnh dậy, Mị cảm giác sợ và đau đớn khi nghĩ về thân phận mình. Nhìn những giọt nước mắt của A Phủ, Mị xúc động thấy thương cho A Phủ và nhớ lại nỗi đau chính mình. Sức sống cùng sự đánh thức tâm hồn, lòng thương người cùng cảnh ngộ đã giúp Mị vượt qua nỗi sợ, Mị quyết định cởi dây trói cho A Phủ và tự giải thoát tắt nhân vật Mị siêu ngắn - Bài mẫu 6Mị là một người con gái xinh đẹp, tự do, có nhiều tài lẻ và là người được nhiều chàng trai theo đuổi. Vào một đêm nọ, khi nghe tiếng bước chân ở cạnh vách nhà, do tưởng là người yêu mình, Mị đã đưa tay ra thì bị con trai thống lí Pá Tra là A Sử bắt đi. Ngày hôm sau, Mị bị bắt trình ma làm dâu của nhà thống lí để thay trả món nợ mà ngày xưa bố mẹ Mị lấy nhau do không có tiền buộc phải vay của nhà lão. Thời gian đầu mới về làm dâu, Mị từ cô gái vô tư yêu đời trở nên vô cùng phiền muộn, lầm lì cô luôn nghĩ đến cái chết để có thể giải thoát bản thân, nhưng nghĩ đến hoàn cảnh của người cha già mình, Mị không nỡ lòng ăn lá ngón mà chết đi. Sống trong vòng quay của kiếp làm dâu nợ nần phải trả, Mị gồng gánh công việc hàng ngày của mình như một cái máy, chỉ cảm thấy trống rỗng trống rỗng. Mỗi ngày, cô ấy lặp đi lặp lại những công việc giống nhau, di chuyển chậm chạp như một con rùa trong sân. Trong ngày Tết, Mị lén uống rượu say. Tiếng diều đưa cô về những ngày xưa đẹp đẽ, làm sống lại bao kỉ niệm. Nàng định ra ngoài vui chơi nhưng bị A Sử bắt trói lại. Vào ban đêm, cô vẫn trong cơn say, nhưng khi tỉnh dậy, cô cảm thấy đau đớn và sợ hãi. A Sử bị A Phủ đánh, Mị cởi trói đi lấy thuốc cho chồng. Dù đã chăm sóc A Sử nhưng cô vẫn bị anh đánh. Nghe tin A Phủ bị đánh, Mị xúc động rơi nước mắt, cắt dây trói giúp A Phủ trốn sang Phiềng quát về tác giả Tô HoàiTô Hoài 1920 - 2014 tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông nay thuộc Hà Nội nhưng sinh ra và lớn lên ở quê ngoại - làng Nghĩa Đô, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội trong một gia đình thợ thủ công. Thời trẻ, ông đã phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề, như làm gia sư dạy kèm trẻ, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn,… và nhiều khi thất Hoài bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một cuốn truyện vừa, viết theo dạng võ hiệp, nhưng rồi ông nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay, trong đó có Dế Mèn phiêu lưu 1943, ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Sau hơn 60 năm lao động nghệ thuật, ông đã có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện, tiểu luận và kinh nghiệm sáng Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ giàu có, nhiều khi rất bình dân và thông tục nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người phẩm chính Dế Mèn phiêu lưu kí, O chuột, Quê người, Nhà nghèo, Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Cát bụi chân ai,…Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ 1952 in trong tập Truyện Tây quát chung về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ1. Hoàn cảnh ra đời Vợ chồng A PhủTruyện ngắn Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đặc sắc trong tập Truyện Tây Bắc 1953 Đó là kết quả của chuyến đi tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài mà tác giả đã "cùng ăn, cùng ở, cùng làm" với đồng bào dân tộc Tây Bắc trong suốt 8 tháng của năm 1952. Tác giả đã thổ lộ "Đất nước và con người Tây Bắc đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên". Với những giá trị trên truyện ngắn Vợ chồng A Phủ xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam, được tặng giải Nhất - giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - Bố cục Vợ chồng A PhủPhần 1 từ đầu đến “bị đánh vỡ đầu” Cuộc sống và diễn biến tâm trạng của Mị khi ở nhà thống lí Pá 2 tiếp đó đến “đánh nhau ở Hồng Ngài” Hoàn cảnh của A Phủ và cuộc xử kiện ở nhà thống lí Pá 3 còn lại Mị cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Giá trị nội dung Vợ chồng A Phủ“Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự cũng nói lên ước mơ về một cuộc sống tự do, hạnh phúc của người Giá trị nghệ thuật Vợ chồng A PhủNghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí nhân vật sinh động, có cá tính đậm thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,....Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền Chủ đềQua câu chuyện về cuộc đời của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện một cách xúc động nỗi khổ cực của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất thực dân, đồng thời phát hiện, khẳng định vẻ đẹp, sức sống mãnh liệt và quá trình vùng lên tự giả phóng, xây dựng lại cuộc đời của các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôiTổng hợp 150 đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữNghị luận xã hội về trí và nhânĐoạn văn nghị luận xã hội 200 chữNghị luận xã hội 200 chữ về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộcTrên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Tóm tắt nhân vật Mị siêu ngắn. Bài viết đã gửi tới bạn đọc những mẫu tóm tắt về nhân vật Mị. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu bổ ích nhé. Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm mục Soạn văn 12, Văn mẫu 12... Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài gồm dàn ý chi tiết kèm theo 3 bài văn mẫu hay, được THPT Nguyễn Đình Chiểu tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước. Hành động Mị chạy theo A Phủ Hành động Mị chạy theo A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ là hành động đi tìm hạnh phúc, tìm tự do. Vậy dưới đây là 3 bài văn mẫu phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ, mời các thầy cô và các bạn cùng tham đang xem Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ 1. Mở bài Giới thiệu vấn đề cần phân tích 2. Thân bài a. Khởi đầu cho hành động liều lĩnh của Mị là xuất phát từ số phận đau thương Mị là một người con gái xinh đẹp, biết thổi sáo, thổi sáo rất hay, lại được nhiều trai làng ngấp nghé và Mị cũng có riêng cho mình một tình yêu đẹp đẽ. Mị bị ép trở thành con dâu gán nợ, thực tế là trở thành một nô lệ suốt đời làm lụng và phục dịch cho nhà thống lý. Ban đầu Mị thấy đau khổ quá, Mị đã nhiều lần muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi cho đỡ khổ. Thế nhưng cuối cùng vì chữ “hiếu” vì thương cha, sợ mình chết rồi thì người ta lại bắt tội cha, Mị đành quay về sống tại căn nhà lạnh lẽo, ác độc ấy như một cái xác không hồn. Mị làm lụng quanh năm suốt tháng, đầu óc không nghĩ gì ngoài chuyện đi làm. Đày đọa về mặt tinh thần khi Mị phải sống với người mình không yêu, Mị hoàn toàn mất hết quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. => Cuộc đời của Mị chính là một bản án chung thân không hồi kết. b. Một sự chuyển biến, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị khởi đầu cho sự tự giải thoát khi chạy theo A Phủ Tiếng sáo gọi bạn tình mùa xuân réo rắt, vui nhộn quẩn quanh đã khơi gợi lại trong lòng Mị biết bao nhiêu kỷ niệm, khiến lòng Mị sống lại những xúc cảm ham sống, ham hạnh phúc. Đỉnh điểm của sự ý thức và sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị được bộc lộ khi Mị ý thức một cách mạnh mẽ rằng ” Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. A Sử về trói Mị vào cột nhà, Mị nghĩ về chuyện đã từng có một người đàn bà trong nhà này bị trói cho đến chết. => Điều đó cho thấy một cách rõ ràng rằng Mị vẫn còn yêu cuộc đời này lắm, vẫn còn những khao khát được sống, được hạnh phúc, được tự do. c. Giải thoát cho A Phủ và tự giải thoát cho bản thân Tận mắt chứng kiến giọt nước cay đắng, xót xa của một người đàn ông “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ, Mị thấy căm giận, phẫn nộ trước sự bất công và độc ác của đám người nhà thống lý Pá Tra, thấy thương xót và đồng cảm cho cuộc đời của A Phủ. Mị lại quyết tâm giải cứu A Phủ, mở cho anh một con đường mới. Sau khi thấy người đàn ông trước mặt dù đã sức cùng lực kiệt, khuỵu xuống vì đói rét, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy, dùng hết sức bình sinh sinh chạy, lăn xuống dưới sườn đồi để mưu cầu sự sống. => Trong lòng Mị ý thức được rằng Mị đã giải thoát được cho người khác thì cớ sao không thể tự giải thoát cho mình, và thế là Mị không còn do dự gì nữa, chạy lao theo A Phủ. – Câu nói “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất” vừa là lời giải thích với A Phủ, vừa là những ý thức sâu sắc của Mị về cuộc đời đầy bế tắc và đen tối ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ cả sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân vật này để đi theo tiếng gọi của tự do, của hạnh phúc. – Hành động bỏ trốn của Mị Kéo Mị ra khỏi ách thống trị đàn áp tàn ác của cường quyền và thần quyền phong kiến. Trở thành động lực, tấm gương cho nhiều những người phụ nữ có chung số phận với Mị ở Hồng Ngài nói riêng và vùng núi phía Bắc nói riêng. Chứng minh được rằng sự đàn áp của cường quyền và thần quyền không bao giờ có thể giam cầm được những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. 3. Kết bài Cảm nhận chung về ý nghĩa hành động Mị chạy theo A Phủ Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ – Mẫu 1 Trong các tác giả văn học Việt Nam, Tô Hoài được nhớ tới như một bậc thầy lão luyện, kho tàng văn học ông để lại đã gắn bó với bao lớp thế hệ, từ dế mèn phiêu lưu kí, đế vợ chồng A Phủ. Nói đến truyện ngắn vợ chồng A Phủ, ta không thể không nghĩ ngay đến nhân vật Mị. Cô gái đã thắp sáng lên ngọn lửa hi vọng cho mọi cô gái chịu áp bức ở Tây Bắc nước ta thời bấy giờ. Mị là hiện thân cho tấm lòng nhân đạo, và ngòi bút hết sức bén nhạy của Tô Hoài. Ông vốn là một người ưa tìm hiểu những phong tục tập quán, nên có cái nhìn rất rõ về hoàn cảnh số phận, những khó khăn mà người phụ nữ miền núi phải gánh chịu lúc bấy giờ. Tô Hoài nhắc đến Mị, đầu tiên với những vẻ đẹp phẩm chất của cô, mà vẻ đẹp ấy đẹp lắm, trong sáng thuần khiết và thanh cao lắm, quý như một viên ngọc giữa núi rừng và không gì có thể làm viên ngọc ấy bị mài mòn và ngừng tỏa sáng. Tuy nhiên, hoàn cảnh của Mị lại trớ trêu, vì đúng là “hồng nhan bạc mệnh”. Mẹ mất sớm, Mị ở với cha, và ở trong một gia đình mà có truyền kiếp nợ thống lí. Nhưng Mị lại là một cô gái đẹp và tài năng, mị không những biết thổi sáo mà còn là cô gái khiến các chàng trai trong bản “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” không những thế Mị còn là một cô gái vô cùng hiếu thảo và ngoan ngoãn, Mị có thể chịu khổ cực vất vả để trả nợ thay cha, chứ nhất quyết không bán rẻ lòng tự trọng và chịu gò ép trong hoàn cảnh là con dâu nhà giàu. Mị hiện lên đầu truyện với những đức tính cao quý mà một cô gái như vậy, xứng đáng có được cuộc sống như mình hằng ao ước. Nhưng, đời không cho Mị tự do, dù Mị có muốn trốn chạy như thế nào đi chăng nữa. Hôm ấy, Mị bị A Sử bắt về cúng trình ma làm con dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, và kể từ đó, cuộc sống tâm hồn và thể xác Mị bị đọa đày khổ cực. Nhưng, với tấm lòng cảm thương sâu sắc, Tô Hoài đã để cho bản chất của Mị được hiện lên, những khát vọng, ước ao một thời lại trỗi dậy mạnh mẽ. Trong đêm tình mùa xuân, hồi ức của một thời được sống với chính mình, với những gì mình ao ước trỗi dậy trong Mị. Mị “cứ uống ừng ực từng bát” rượu, rồi lại thấy “phơi phới trở lại” Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ, nhận ra mình với A Sử đến với nhau chẳng vì tình. Mị muốn vui chơi, Mị muốn được sống và Mị khát khao sống. Nhưng, ngay hôm đó, khi ngọn lửa tâm hồn Mị vừa trỗi dậy thì A Sử đã trói chặt Mị vào cột nhà, đầy đau đớn và thương tâm, Mị không khóc được, không cựa quậy được, và Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Ngày A Phủ bị giải đến nhà thống lí, và lần đầu tiên gặp A Phủ, Mị vẫn còn cái tâm trạng khá thờ ơ. Bởi trong lòng Mị vốn đã chết, nên cuộc sống với Mị cũng chỉ là sự lặp đi lặp lại của thời gian và của sự tồn tại mà thôi. Nhưng, hôm ấy lại khác, “Mị lé mắt trông sang” chợt thấy một giọt nước mắt đắng cay, tủi hờn từ A Phủ. Giọt nước mắt lóng lánh ấy đã nhắc lại cho Mị nhớ thời gian Mị bị thằng A Sử trói đứng đầy nhẫn tâm, tàn ác. “Chúng nó thật độc ác” Mị nhận ra một sự thật mà bấy lâu nay ẩn chứa từ sâu trái tim đã nguội lạnh của mình. “chết đau, chết đói, chết rét” Mị cảm thương cho A Phủ bằng chính sự cảm thương Mị có ngày trước, trái tim tiềm tàng của Mị được thức tỉnh nhanh chóng. Và dứt khoát, Mị cắt dây trói và nói “đi ngay”.. Và hành động trói dây buộc A Phủ cùng việc ngay sau đó Mị chạy theo A Phủ vào bóng tối, cũng là điều tất yếu của một con người đã bị dồn nén đến mức cùng cực. sức sống mạnh mẽ được trỗi dậy, và đã kết thúc quãng thời gian đầy ải, tối tăm mà Mị đã phải chịu trong nhà thống lí Pá Tra, hành trình đi theo A Phủ cũng chính là một hành trình tìm đến sự sống mới của Mị, và những hi vọng dù là trong bóng tối, Mị cũng đã không còn gì để mất, để phải sợ nữa.. Mị là nhân vật số phận, và nhờ số phận hành động của Mị đã kể cho ta nghe về một ngòi bút đầy nhân đạo, và một trái tim đầy cảm thông của Tô Hoài. Nhà Văn đã góp một tiếng nói chung vào dòng chảy của văn học dân tộc, để ca ngợi những phẩm chất cao quý của người phụ nữ, và khẳng định niềm tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống luôn hướng về cái đẹp, cái thiện. Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ – Mẫu 2 “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được trích từ tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tập truyện đã được tặng giải Nhất, giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 – 1955. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn hay viết về một sự đổi đời kì diệu. Xoay quanh hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, Tô Hoài đã khắc họa hai chặng đường hoàn toàn đối lập. Chặng đường đầu tiên là những ngày ở Hồng Ngài, Mị và Phủ – hai con người xinh tươi, giỏi giang phải cam cảnh nô lệ ê chề. Chặng đường thứ hai là ở Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã vùng lên từ bóng đêm của cường quyền, thần quyền để đến với ánh sáng của tự do. Sự kiện đánh dấu bước chuyển biến giữa hai chặng đường chính là hành động Mị cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ. Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Mị cũng có tình yêu như bao người, cũng được bao kẻ say mê, theo đuổi “con trai đến đứng nhẵn cả vách đầu giường nhà Mị”. Tô Hoài đã miêu tả tài năng thổi sáo của Mị như sau “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người say mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Đứng trước món nợ của bố, Mị nhận lấy trách nhiệm của người con, thà là vất vả lao động “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” còn hơn phải trở thành con dâu gạt nợ “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Thế nhưng số phận bi kịch đã không nhún nhường và buông tha cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Trước món nợ truyền kiếp và sự áp chế của thần quyền – Mị nghĩ rằng đã cúng “trình ma” thì mình chỉ còn biết làm thân trâu ngựa cho đến ngày chết rũ xương ở đấy mà thôi – Mị hoàn toàn tê liệt về thể xác lẫn tinh thần “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Vì thế, mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên hình ảnh bi thương cùng quẫn của kiếp người “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước suối dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, từ một, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi. Trước khi trở thành con ở nhà thống lý, A Phủ tuy có xuất thân bất hành “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc” nhưng vẫn là chàng trai yêu đời và có nhiều phẩm chất tốt đẹp. A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, yêu lao động, tự do, giỏi giang “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”. A Phủ còn là niềm khát khao của bao cô gái trong làng “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Vì tội đánh con quan – A Sử mà A Phủ từ đứa con của núi rừng trở thành kẻ nô lệ với bản án chung thân “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Hai con người tươi trẻ giờ trở thành hai kẻ cùng khổ, số phận họ bị quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra. Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Quá khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhóm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều. Một cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày. Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”… Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời mới, là con đường mới. Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Có thể nói đây là giá trị nhân đạo mới mẻ trong ngòi bút Tô Hoài nói riêng và ngòi bút các nhà văn sau cách mạng nói chung. Lí tưởng thời đại đã thay đổi, con người đã tìm ra lối thoát tinh thần của mình. Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách mạng, họ đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A Phủ. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, vượt qua nỗi sợ đã gặm nhấm thể xác và tinh thần, Mị đã chạy theo A Phủ. Bước chân của Mị là bước chân đạp đổ hiện thực “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Cuối cùng, cô Mị sau bao năm vô cảm, lùi lũi, trơ trơ cũng đã đối diện với nỗi sợ của mình. Nàng đã hồi sinh trở lại từ sự chết dần chết mòn những ngày tháng qua. Nàng đã vùng lên đấu tranh, ngọn lửa sức sống âm thầm nhưng mạnh mẽ, kết tinh thành hành động táo bạo, dứt khoát. Chính dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen lại kia đã đem đến sự hồi sinh cho Mị – một sự hồi sinh kì diệu. Thế là từ đây, Mị kết thúc cuộc đời cuộc đời con dâu gạt nợ, A Phủ kết thúc kiếp nô lệ tôi đòi. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa – vùng đất hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc. Hành động Mị chạy theo A Phủ đã khép lại những tháng ngày quẩn quanh, bế tắc của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Tô Hoài bằng tài năng của mình đã xây dựng tác phẩm thành công trên nhiều phương diện đề tài, kết cấu, nhân vật. Do đó, “Vợ chồng A Phủ” trở thành một tác phẩm tiêu biểu viết về sự trỗi dậy của thân phận con người, cụ thể ở đây là người dân vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến. Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ – Mẫu 3 Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một trong những tác phẩm nổi bật của nền văn học hiện thực nước ta những năm kháng chiến chống Pháp, khi viết về đề tài người phụ nữ dân tộc miền núi và số phận bất hạnh của họ, cũng như những vẻ đẹp tâm hồn tiềm tàng đáng quý, đáng trân trọng. Có thể thấy rõ rằng văn của Tô Hoài không nhằm mục đích chính là phản ánh hiện thực mà chủ yếu là để ca ngợi những vẻ đẹp của con người ở tầng lớp tận cùng đáy của xã hội, chịu sự áp bức của cường quyền và thần quyền phong kiến. Thế nên nhân vật của ông luôn có những sự chuyển biến cảm xúc, tâm trạng tinh tế, cùng những bước ngoặt rất “đắt” thể hiện sự vùng lên mạnh mẽ để tự giải thoát bản thân khỏi số phận đớn đau, mà có lẽ ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là cảnh Mị chạy theo A Phủ trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra. Nói về hành động bỏ trốn của Mị, nếu như không xét đến một hoàn cảnh nào khác thì đó là một sự kiện xấu xa, trắc nết, bởi lẽ trong phong tục truyền thống của các dân tộc miền núi, hay trong nề nếp gia phong của dân tộc Việt Nam, người ta vẫn đề cao sự chung thủy, kiên trinh của người đàn bà. Mị đã cúng trình mà nhà thống lý Pá Tra, thì đã là người của nhà ấy, là vợ của A Sử, chết cũng phải là ma của ngôi nhà này, không thể đổi khác. Thế nhưng khi xét đến toàn bộ câu chuyện, ta lại mới nhận ra hành động bỏ trốn của Mị dường như là một điều tất yếu, là sự kiện nhất định phải xảy ra sau một loạt các chuỗi biến cố trong cuộc đời bất hạnh của Mị. Mị là một người con gái xinh đẹp, biết thổi sáo, thổi sáo rất hay, lại được nhiều trai làng để ý và Mị cũng có riêng cho mình một tình yêu đẹp đẽ, có lẽ sẽ đơm thành trái nếu không có món nợ truyền kiếp của cha Mị. Thêm vào đó Mị cũng là người con gái chăm chỉ, chịu khó, Mị sẵn sàng lên nương trồng bắp, trồng sắn để trả nợ thay cha, chứ không muốn gả vào làm dâu nhà giàu có. Điều đó thể hiện được tấm lòng hiếu thảo, không tham phú phụ bần của Mị, và đáng lý rằng một người con gái như vậy phải đáng được hưởng một cuộc đời ấm êm, dẫu không giàu sang nhưng hạnh phúc, tự do. Thế nhưng sức mạnh của cường quyền và thần quyền phong kiến đã không cho phép điều đó xảy ra, A Sử đã dùng vũ lực để bắt Mị về cúng trình ma, ép Mị trở thành con dâu gán nợ, thực tế là trở thành một nô lệ suốt đời làm lụng và phục dịch cho nhà nó. Ban đầu Mị thấy đau khổ quá, Mị đã nhiều lần muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi cho đỡ khổ, Mị chạy về khóc xin cha,… thế nhưng cuối cùng vì chữ “hiếu” vì thương cha, sợ mình chết rồi thì người ta lại bắt tội cha, Mị đành quay về sống tại căn nhà lạnh lẽo, ác độc ấy như một cái xác không hồn. Bao nhiêu niềm vui sướng, hạnh phúc của tuổi trẻ dường như đã tàn lụi và nguội lạnh như một nắm tro tàn trong tâm hồn của người đàn bà tội nghiệp. Mị làm lụng quanh năm suốt tháng, đầu óc không nghĩ gì ngoài chuyện đi làm, Mị quên cả cách giao tiếp nói chuyện, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đầu cúi xuống, sống lầm lũi như một con rùa trong xó cửa. Khổ sở đến độ Mị còn ý thức một cách đau đớn tột cùng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Không chỉ khổ sở về mặt thể xác mà cuộc đời của Mị còn là những đày đọa về mặt tinh thần, Mị phải sống với người mình không yêu, phải từ bỏ mối tình dang dở của mình, không còn được thổi sáo, thổi lá, chơi xuân cùng chị em như khi còn ở nhà. Mị hoàn toàn mất hết quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, căn buồng Mị ở chẳng khác nào một cái nhà tù khi mà chỉ có một ô cửa bé bằng bàn tay “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Và cuộc đời của Mị chính là một bản án chung thân không hồi kết, Mị sống trong cảnh đau khổ tột cùng ấy sao có thể không chai lì, tuyệt vọng và chết lặng cho được. Một sự chuyển biến, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị khởi đầu cho sự tự giải thoát khi chạy theo A Phủ ấy là nhờ vào âm thanh của sự sống Tiếng sáo gọi bạn tình mùa xuân réo rắt, vui nhộn quẩn quanh. Nó đã khơi gợi lại trong lòng Mị biết bao nhiêu kỷ niệm, khiến lòng Mị sống lại những xúc cảm ham sống, ham hạnh phúc, Mị nhẩm hát theo tiếng sáo, rồi Mị cũng học theo người ta uống rượu, uống ừng ực từng bát. Đỉnh điểm của sự ý thức và sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị được bộc lộ khi Mị ý thức một cách mạnh mẽ rằng”Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. Mị vào buồng mặc váy hoa, vấn lại tóc định đi chơi, thì A Sử về nó trói Mị vào cột nhà, ngay lúc này đây lòng Mị vẫn bay theo những tiếng sáo ngoài đường, rồi khi trở lại thực tại, Mị nghĩ về chuyện đã từng có một người đàn bà trong nhà này bị trói cho đến chết. Một kể vốn trước đây đã không còn thiết tha chuyện chết hay sống gì vậy mà giờ đây lại thấy sợ hãi, “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau từng mảnh thịt”. Điều đó cho thấy một cách rõ ràng rằng Mị vẫn còn yêu cuộc đời này lắm, vẫn còn những khao khát được sống, được hạnh phúc, được tự do, Mị không muốn chết vào lúc này, đời Mị còn dài lắm, dù rằng Mị cũng chưa nghĩ ra được giải pháp giải thoát cho bản thân. Đến khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng giữa sân vì làm mất một con bò và có thể phải đền mạng vì con bò ấy, Mị thoạt đầu tỏ ra chẳng quan tâm, bởi lẽ Mị lo cho thân mình còn chưa xong, nói gì đến những kẻ khác. Thế nhưng khi tận mắt chứng kiến giọt nước cay đắng, xót xa của một người đàn ông “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ, lòng Mị đã có những biến đổi lớn. Mị thấy căm giận, phẫn nộ trước sự bất công và độc ác của đám người nhà thống lý Pá Tra, thấy thương xót và đồng cảm cho cuộc đời vừa mới bắt đầu của A Phủ mà nay lại sắp phải chấm dứt chỉ vì cái sự nghèo đói và cách biệt tầng lớp. Từ một người phụ nữ yếu đuối, ấy vậy mà Mị lại quyết tâm giải cứu A Phủ, mở cho anh một con đường mới. Ban đầu có lẽ Mị đã định rằng mình dù gì có chết cũng phải là ma của nhà này, thế nên cô quyết định hy sinh để cắt dây trói cho A Phủ, còn bản thân ở lại chịu tội. Tuy nhiên, sau khi thấy người đàn ông trước mặt dù đã sức cùng lực kiệt, khuỵu xuống vì đói rét, nhưng vẫn gắng gượng đứng dậy, dùng hết sức bình sinh sinh chạy, lăn xuống dưới sườn đồi để mưu cầu sự sống. Trong lòng Mị bỗng nhiên vỡ ra một cái gì đó, phải rồi Mị đã giải thoát được cho người khác thì cớ sao không thể tự giải thoát cho mình, và thế là Mị không còn do dự gì nữa, chạy lao theo A Phủ. Câu nói “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất” vừa là lời giải thích với A Phủ, vừa là những ý thức sâu sắc của Mị về cuộc đời đầy bế tắc và đen tối ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ cả sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự vùng dậy mạnh mẽ của nhân vật này để đi theo tiếng gọi của tự do, của hạnh phúc, mong muốn khao khát được làm lại một cuộc đời mới, một cuộc đời do chính bản thân mình định đoạt làm chủ. Hành động bỏ trốn của Mị, đã kéo Mị ra khỏi ách thống trị đàn áp tàn ác của cường quyền và thần quyền phong kiến, trở thành động lực, tấm gương cho nhiều những người phụ nữ có chung số phận với Mị ở Hồng Ngài nói riêng và vùng núi phía Bắc nói riêng. Cũng lại chứng minh được rằng sự đàn áp của cường quyền và thần quyền không bao giờ có thể giam cầm được những con người có tâm hồn khao khát tự do, có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, mà chỉ có thể giam cầm được thể xác của họ mà thôi. Hành động của chạy theo A Phủ của Mị là một hành động mang tính bước ngoặt lớn, minh chứng rằng một con người chỉ cần có tấm lòng khao khát tự do, sự vùng dậy mạnh mẽ, sức sống tiềm tàng mãnh liệt thì họ có thể tự giải thoát cho mình bất cứ lúc nào. Đánh dấu một bước chuyển biến mới trong tư duy của những con người ở miền núi, cường quyền và thần quyền phong kiến đã đến ngày tận thế, suy tàn, không còn phù hợp trong thời đại mới, không còn đủ sức để đàn áp con người thấp cổ bé họng nữa. Mà có thể một mai đây chính nó sẽ bị những con người này lật đổ, để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn công bằng hơn. Đăng bởi THPT Nguyễn Đình Chiểu Chuyên mục Tài Liệu Lớp 12 Home / Văn mẫu / Lớp 12 / Sự giống và khác nhau về số phận và tính cách của Mị và A Phủ 01/04/2015 Lớp 12, Văn mẫu 6,640 Lượt xem– Giống nhau Mỵ và A Phủ đều là nạn nhân của chế độ thực dân phong kiến bấy giờ và cả hai đều có khát vọng về đời sống tự do. Sức sống của Mỵ và A Phủ không bị hoàn cảnh đen tối tiêu diệt mà vẫn tiềm ẩn và cuối cùng bùng lên mãnh liệt.– Khác nhau Mị bị giam cầm trong nhà Thống lí Pá Tra rất lâu nên Mị có tính cách cam phận, chịu đựng. Còn A Phủ mồ côi từ nhỏ, sống tự lập từ nhỏ, do đó, sự phản kháng của A Phủ mãnh liệt hơn, táo bạo luận cho bài viết Nhận xét Có thể bạn quan tâmTrình bày những nét chính về cuộc đời và nghệ thuật của Tô HoàiEm hãy trình bày những nét chính về cuộc đời và nghệ thuật của Tô … Văn mẫu lớp 12 - Tài liệu hướng dẫn lập dàn ý phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ, tham khảo một số bài văn mẫu hay để mở rộng vốn từ và cách trình bày khi đi vào làm bài phân tích nhân vật dẫn lập dàn ýphân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ1. Phân tích đề- Kiểu bài dạng bài phân tích nhân vật trong tác phẩm văn Vấn đề nghị luận Tâm trạng, hành động, phẩm chất, tính cách của nhân vật Mị Các em cần phải nhớ những chi tiết, sự kiện liên quan đến nhân vật và ý nghĩa đối với tác phẩm.- Phạm vi dẫn chứng, tư liệu các căn cứ, hình ảnh, chi tiết, câu nói... thuộc phạm vi văn bản đoạn trích Vợ chồng A Phủ, mà chủ yếu là về nhân vật Xác lập luận điểm, luận cứ- Luận điểm 1 Mị vốn là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp+ Trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo+ Luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu+ Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự Luận điểm 2 Số phận bi thảm.+ Là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi+ Bị hành hạ về mặt thể xác+ Bị đầu độc, nhục mạ tinh thần- Luận điểm 3 Sức sống tiềm tàng trong Mị.+ Trong đêm tình mùa xuân+ Trong đêm cắt dây trói cứu A Phủ3. Sơ đồ tư duySơ đồ tư duy phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ4. Chi tiết dàn ý phân tích nhân vật Mịa Mở bài- Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền, ông có vốn ngôn ngữ phong phú, lối trần thuật tự Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài, truyện viết về những con người Tây Bắc tiềm tàng sức sống đã vùng lên đấu tranh chống lại bọn thống Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp Thân bài* Mị vốn là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp- Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra+ Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”+ Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.+ Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.* Nạn nhân của những áp bức bất công- Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”, bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, ...- Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, ... đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay ...không biết là sương hay nắng”.- Mị sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.* Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị- Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy+ Âm thanh cuộc sống bên ngoài tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình,... ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.+ Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.+ Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do.+ Tinh thần phản kháng mạnh mẽ lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.+ Khi bị trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.=> Nhận xét Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng+ Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.+ Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau,... phải chết”.+ Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ+ Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.=> Nhận xét Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền Kết bài- Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Nghệ thuật ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây thể bạn quan tâm Hướng dẫn lập dàn ý phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong "Vợ chồng A Phủ".Bài văn đạt điểm cao phân tích nhân vật Mị của học sinh lớp 12 THPT Kim LiênTô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Sáng tạo của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông ”Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không thể tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc". Ông cũng có một vốn hiểu biết phong phú sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Chính vì như vậy, tác phẩm của ông luôn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” viết năm 1953 của nhà văn là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế của ông đối với mảnh đất Tây Bắc. Tô Hoài đã có công khai khẩn cho một vùng đất bị văn học bỏ quên. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận khổ đau của những người dân nghèo miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất, đồng thời, tác phẩm là bài ca về sức sống và vẻ đẹp của con người nơi đây mà tiêu biểu là nhân vật đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu về Mị qua hai nghịch cảnh. Một bên là cô Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Một bên là cảnh nhà thống lí giàu có, người ra vào tấp nập. Mị là một con người mà như lẫn vào các vật vô tri, nghĩa là con người mà không khác gì đồ vật, kiếp người mà không khác gì kiếp vật. Đây là thủ pháp tạo tình huống “có vấn đề” trong lối kể chuyện truyền thống giúp người đọc tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn về số phận nhân vật và những vẻ đẹp ẩn sâu trong những con người ấy mà ở đây chính là về hết, Mị là một cô gái có số phận khổ đau. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp mà Mị phải vào làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, phải sống một kiếp người khổ đau. Về nhà thống lí, Mị bị chà đạp, vùi dập, cướp đoạt tất cả mọi quyền. Mị sống như kiếp vật. Bề ngoài là con dâu nhưng thực chất là con nợ. Nỗi khổ đau nhất ở Mị là con nợ thông thường dù khốn khổ đến mấy còn có hi vọng thoát khỏi thân phận con nợ sau khi đã trả hết nợ cho chủ, oái ăm thay, Mị là con nợ nhưng cũng là con dâu con dâu gạt nợ đã bị “cúng trình ma nhà nó rồi, chạy đâu cho thoát, chỉ còn cách chịu đựng đến tàn đời mà thôi”. Thực ra, Mị đã sớm linh cảm thấy cuộc đời đau khổ của mình nên ngay từ đầu Mị đã van xin cha “Đừng bán con cho nhà giàu”. Mị sẽ tự cuốc nương, trồng ngô để thay cha trả nợ. Thế nhưng nguyện vọng chính đáng ấy không thể chống lại âm mưu thâm độc của cha con nhà thống ngày tháng sống trong thân phận làm dâu gạt nợ là những chuỗi ngày dằng dặc đau thương của Mị, Mị sống trong tủi cực, đúng nghĩa với một nô lệ khổ sai. Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động trong tay cha con thống lí. Suốt năm suốt tháng Mị cực nhục âm thầm trong công việc, “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, se đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời như thế”. Những việc giống nhau, tiếp nhau sẽ vẽ ra trước mặt mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm thủ pháp so sánh tương đồng, nhà văn đã làm nổi bật cuộc đời cơ cực của Mị, Mị nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa vì là con trâu, con ngựa thì phải đổi ở tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, là trâu ngựa thì chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Thậm chí “con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm còn được đứng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa đến nỗi ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi. Lời cắt nghĩa ấy của tác giả đã minh giải tình trạng Mị bị đày đọa đến mức tê liệt. Càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Cửa buồng Mị ở âm u lạnh lẽo, nó kín mít chỉ có một cái cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay nắng. Mị cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi. Đây là chi tiết gây ám ảnh về một địa ngục trần gian ngột ngạt bức bối. Đó là một ẩn dụ, bế tắc về một cuộc đời, một số phận, con dâu mà như tù nhân khổ sai. Nhà văn đã cất lên tiếng nói nhân quyền của con người để vạch trần tố cáo tội ác của bọn chúa đất vô đạo ở miền núi đã làm khô cạn nhựa sống, làm tàn lụi cả niềm vui sống của những con người tha thiết yêu đời, yêu tự còn bị trói buộc bởi nhiều thế lực thân quyền, cường quyền, nam quyền. Vì quyền lực mà cha con thống lí đã bắt Mị làm dâu gạt nợ. Ở nhà thống Lí, Mị bị tước đoạt cả những quyền tự do tối thiểu. Mị không được đi chơi xuân trong khi A Sử đã có vợ hắn vẫn đi chơi xuân, hắn còn trực rình bắt mấy người đàn bà nữa về làm vợ… Những thế lực vô hình thi nhau hù dọa đây, đã có lần Mị muốn chết nhưng không thể bởi lòng hiếu thảo không cho phép Mị quyên sinh. Giờ đây, khi không còn cái gì ngăn cản nữa thì Mị lại buông xuôi, sống vật vờ như cái xác không hồn. Chính lúc này, hoàn cảnh của người con gái ấy càng đáng thương hơn. Bởi trước đây, khi Mị muốn chết là muốn chống lại hoàn cảnh, đó là biểu hiện của lòng ham sống, còn giờ đây khi không tưởng đến cái chết có nghĩa là lòng yêu tha thiết cuộc sống đã không còn. Đời Mị lặng lẽ trôi đi. Ách áp bức dai dẳng và nặng nề của bọn thực dân chúa đất miền núi đã khiến cho Mị hoàn toàn tê liệt. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, dù Mị là cô gái mang số phận khổ đau, dù cuộc sống của Mị trong nhà thống Lí là những chuỗi ngày dài đau khổ thì ở Mị vẫn sáng lên những vẻ đẹp không thể bị mờ đi, mòn đi bởi những khổ đau của số phận. Mị vốn là một người con gái đẹp. Nhà văn không trực tiếp miêu tả mà gợi vẻ xinh đẹp ấy qua lời kể “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” Mị còn có tài thổi sáo hay. Mỗi lần Mị uốn chiếc là trên môi, thổi là còn hay hơn thổi sáo “Trai làng nhiều người mê, nhiều đến thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”. Tài năng âm nhạc ấy báo hiệu vẻ đẹp tràn đầy của tâm hồn. Trái tim Mị đã bao lần rung lên trước những âm thanh, những tín hiệu hẹn khảo thêmBài văn mẫu phân tích tác phẩm Vợ chồng A PhủTuyển chọn những bài phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ chồng A Phủ hay nhấtKhông chỉ xinh đẹp, Mị còn là người con hiếu thảo, khi cha mẹ Mị mang nợ nhà thống Lí, Mị đã xin cha được làm nương thay cha trả nợ. Nhưng khi nguyện vọng không thành thì Mị đã báo hiếu cho cha bằng cả cuộc đời con gái tươi trẻ đẹp đẽ của chừng sức sống trong Mị đã lụi tàn, nhưng không! Vượt lên trên số phận, hoàn cảnh sống khổ đau tủi nhục, trong chiều sâu dáng hình câm lặng héo úa kia vẫn tiềm tàn một sức sống mạnh mẽ. Sức sống ấy vẫn âm thầm, ấm nóng như một viên than hồng bị tro tàn bao phủ. Nó chỉ chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ, dữ sống tiềm tàng vốn có trong Mị, nó đa dạng và bí ẩn. Sức sống ấy ẩn ngay trong nỗi buồn, trong sự cam chịu, trong hành động phản kháng tìm đến nắm lá ngón tự tử ở thời gian đầu làm dâu gạt nợ nhà thống Lí. Sức sống ấy bùng lên mạnh mẽ trong sự trỗi dậy của lòng yêu đời, khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân. Khát vọng ấy vốn bị vùi dập bấy lâu nay trong một tâm hồn chai sạn vì đau khổ và nó bất chợt cháy lên thật nồng nàn, xa xót trong đêm tình mùa xuân. Có một bước chuyển, bước ngoặt tâm lý rất lớn diễn ra trong tâm hồn Mị. Nhà văn không hề đơn giản trong miêu tả tâm hồn mà còn sự dẫn dắt chuyển biến bất ngờ, hợp lý. Sự chuyển biến tâm lý lớn lao ấy bắt nguồn từ nhiều duyên cơ. Trước hết là do đất trời vào xuân, lòng người rạo rực đón xuân “Hồng Ngài năm ấy ăn Tết vào giữa lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi, xòe trên những mỏm đá như những con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Bức tranh có tác động rất lớn đến tâm hồn Mị. Cùng với bức tranh xuân, một tác nhân nữa là hơi rượu “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát rồi say đến lịm người”. Phải chăng, Mị đang uống cái đắng cay của phần đời đã qua, hay uống cái khát khao của phần đời chưa đến. Cuộc rượu tàn lúc nào Mị không hề hay biết, người về hết chỉ còn mình Mị trở lại giữa nhà. Thế rồi Mị nhớ lại ngày xưa, Mị còn trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên. Mị khao khát hạnh phúc… Và cuối cùng có thể nói, tiếng sáo có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị hồi sinh. Nhà văn Tô Hoài đã dụng công miêu tả tiếng sáo. Thoạt đầu, xa xa từ ngoài đầu núi vọng lại, Mị nghe tiếng sáo “thiết tha bổi hổi”, Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Lát sau tiếng sáo “văng vẳng gọi bạn đầu làng” lòng Mị đang sống về ngày trước. Rồi lòng Mị vẫn đi theo tiếng sáo gọi bạn yêu. Tiếng sáo nặng khát vọng hạnh phúc lớn dần, chiếm trọn vẹn tâm hồn Mị. Như vậy, trong đêm tình mùa xuân, hơi rượu và tiếng sáo gọi bạn tình, Mị đã vượt ra khỏi trạng thái tê dại, vô cảm bấy lâu nay để thức dậy, để hồi sinh. Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả những yếu tố liên quan bên ngoài để tác động đến nội tâm nhân vật ở thời khắc này lòng Mị đầy mâu thuẫn, lòng Mị phơi phới trở lại, Mị muốn đi chơi xuân nhưng cũng chính lúc này “Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Nghịch cảnh ấy cho ta thấy khi niềm khao khát sống hồi sinh thì tự nó sẽ có một mãnh lực, xung đột một mất, một còn với trạng thái vô nghĩa lý của thực tại. Ngòi bút của Tô Hoài đã lách sâu vào những khe kín của tâm hồn nhân vật để phát hiện những nét đẹp, nét riêng trong tính cách nhân vật. Sức sống tiềm tàng còn được thể hiện ở hành động đi chơi xuân. Từ ý nghĩ đã trở thành hành động, Mị chuẩn bị kỹ lưỡng, chăm chút, đường hoàng, Mị quấn lại tóc, xắn một miếng mỡ bỏ vào đèn, khêu đèn cho sáng. Hành động ấy cho thấy Mị như đang thắp lên ngọn đèn trong cuộc đời triền miên tăm tối của mình. Mị với thêm chiếc váy cổ hoa ở trong vách… Mị làm như một người tự do đường hoàng, không hề đếm xỉa đến sự có mặt của A Sử. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã khát vọng tình yêu càng bộc lộ mãnh liệt. Trong hoàn cảnh bị A Sử trói đứng, tóc mị xõa xuống, hắn quấn luôn tóc mị vào cột làm cho mị không nói không nghiêng được. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ đang chật vật bất lực. Suốt đêm, Mị đau như dứt từng miếng thịt, lúc mê lúc tỉnh thế nhưng tâm hồn Mị vẫn mê mải đi theo tiếng sáo gọi bạn theo những cuộc chơi, những đám chơi. Như vậy, A Sử và thế lực tàn bạo ở miền núi có thể trói buộc được thể xác Mị nhưng không thể nào trói buộc được tâm hồn Mị, không thể nào vùi dập được sức sống bất diệt trong Mị. Chính trong đêm tình mùa xuân, ý thức về quyền sống đã trở về trong tâm hồn Mị. Có thể nói, sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân còn có những biểu hiện cảm động. Mị đã xót xa đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Buổi sáng âm u trong căn nhà gỗ, Mị bàng hoàng tỉnh giữa bốn bề im lặng, Mị xót thương những người đàn bà cùng cảnh ngộ như mình, không biết các chị vợ anh, vợ chú có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay là cũng đang bị trói như Mị. “Mị nghẹn ngào khi nhớ lại câu chuyện về một người đàn bà cũng bị chết vì trói đứng ở nhà thống Lý". Những biểu hiện của sự sống tiềm tàng trong đêm tình mùa xuân này chính là cơ sở tạo nên sự vùng dậy, tháo cũi xổ lồng của Mị trong đêm đông sau điểm của sự sống tiềm tàng chính là sự vùng dậy của Mị trong đêm đông cùng hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ. Cả Mị và A Phủ hai con người đau khổ, có những nét tương đồng vì hoàn cảnh, số phận, đều là nạn nhân của nhà thống Lí. Nếu Mị là con dâu gạt nợ nhà thống Lí thì A Phủ là người ở trừ nợ vì đánh bại con quan làng. Năm ấy A Phủ chăn bò ngoài rừng, vì mải bẫy nhím, chẳng may bị hổ vồ mất một con bò, vì thế A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng vào cột. Chính nỗi bất hạnh của A Phủ, chính sự tàn độc của cha con thống Lí đã làm thức dậy tinh thần phản kháng của Mị. Mấy đêm đầu A Phủ bị trói, Mị vẫn trở dậy, vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, Mị chỉ còn biết ở với ngọn lửa, nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Chi tiết này khiến cho ta phải rùng mình trước một số phận bị đày đọa, bị vùi dập tới mức cực một đêm nữa, Mị trở dậy thổi lửa hơ tay. Khi ngọn lửa bùng lên cùng lúc Mị lé mắt trông xa thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở “một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là chi tiết đầu mối của sự đột biến trong tâm lí của Mị. Nhà văn Tô Hoài đã tỏ ra rất am hiểu những chuyển biến kỳ diệu trong tâm hồn nhân vật. Chính giọt nước mắt của chàng trai người Mông gan góc, quả cảm đã tác động trực tiếp đến Mị. Mị nhớ mình, thương mình ngày trước cũng bị trói đứng trong cái nhà này, tóc quấn vào cột, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được, đắng chát và bất lực, khác gì A Phủ bây giờ. Mị thương người giờ đây cũng bị đày đọa như mình. Mị thương những tôi tớ khác, lòng thương lớn dần thành nỗi hận, biến thành lòng căm thù cha con thống Lí, “Chúng nó thật độc ác”. Cái thương, cái giận lớn dần lấn át nỗi sợ hãi, cuối cùng biến thành hành động Mị cầm dao, cắt dây cởi trói cứu A Phủ, cùng A Phủ chạy khỏi Hồng Ngài là hành động bộc phát nhưng vẫn nằm trong logic, sức sống nội tâm của nhân vật. Đó là đỉnh điểm của sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do, khát vọng về quyền sống đã bùng lên, tất cả tạo nên sức mạnh trong hành động tháo cũi xổ lồng của Mị và A Phủ. Mị không những cắt dây cởi trói cứu A Phủ mà còn cắt đứt sợi dây vô hình trói buộc cuộc đời Mị với nhà thống Lí. So với Chị Dậu trong Tắt Đèn, anh Pha trong Bước đường cùng hay Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên… thì kết cục của Mị đã tươi sáng hơn Mị đã vùng dậy, tự giải thoát bằng chính sức mạnh của vậy, qua vẻ đẹp về ngoại hình, tấm lòng hiếu thảo cùng sức sống tiềm tàng mãnh liệt, tất cả đã tạo nên một vẻ đẹp riêng của Mị – một cô gái có số phận khổ đau nhưng luôn mang trong mình vẻ đẹp về cả nội tâm lẫn bên khắc họa thành công về số phận khổ đau và vẻ đẹp riêng có của Mị, ở Mị nhà văn chú trọng lối văn miêu tả những diễn biến tâm lý trong thế giới nội tâm đa dạng, bí ẩn, từ đó, khắc họa lên tính cách nhân vật. Điều đó rất phù hợp trong việc xây dựng nhân vật nữ tính. Bên cạnh đó, Mị còn được nhà văn thể hiện rất độc đáo mang phong cách tiêu biểu của người Mông âm thầm mà mãnh liệt, mộc mạc đơn sơ mà dữ dội khôn tác phẩm, Mị hiện lên như một điển hình cho số phận khổ đau của đồng bào vùng núi Tây Bắc dưới ách cai trị của bọn thực dân, chúa đất miền núi. Đồng thời, nhân vật Mị cũng là điển hình cho bài ca về khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, ý thức vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự số đề văn tương tự bạn nên tham khảoPhân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuânCảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị trong Vợ chồng A PhủVới những thông tin gợi ý cách làm, dàn ý phân tích nhân vật Mị chi tiết trên đây do Đọc Tài Liệu biên soạn và tổng hợp, các em hoàn toàn có thể triển khai thành một bài văn hoàn chỉnh theo văn phong và ý hiểu của chính mình. Ngoài ra, các em cũng nên đọc thêm nhiều bài văn mẫu hay để mở rộng vốn ngôn ngữ và cách trình bày. Chúc các em học tốt ! Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ, tham khảo cách làm và bài văn mẫu hay phân tích nhân vật Mị, qua đó có thêm tài liệu trong quá trình học Ngữ văn lớp Hướng dẫn làm bài phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ1. Phân tích yêu cầu đề bài- Dạng bài Phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học- Yêu cầu về nội dung Tâm trạng, tính cách, phẩm chất, hành động của nhân vật Mị- Phạm vi tư liệu dẫn chứng Các chi tiết, hình ảnh,... có trong văn bản tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đặc biệt là những chi tiết sự việc xoay quanh nhân vật Phương pháp lập luận chính phân Luận điểm về nhân vật Mị- Luận điểm 1 Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài năng và có đời sống tâm hồn phong phú- Luận điểm 2 Mị có số phận bi thảm khi trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra- Luận điểm 3 Sức sống mãnh liệt trong MịII. Lập dàn ý phân tích nhân vật MịSau khi đã xác định được yêu cầu về nội dung và hình thức lập luận phù hợp cho đề bài, hãy cùng nhau bước vào xây dựng hệ thống chi tiết dàn ý phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ Tô Hoài.1. Mở bài phân tích nhân vật Mị- Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài- Giới thiệu tóm tắt nội dung truyện ngắn Vợ chồng A Phủ- Khái quát về nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp Thân bài phân tích nhân vật Mịa Luận điểm 1 Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, tài năng và có đời sống tâm hồn phong phú- Mị - một cô gái trẻ, đẹp “trai đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị”, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.- Tài năng tài thổi sáo “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”- Tấm lòng hiếu thảo câu nói của Mị với cha, Mị nhiều lần nghĩ đến việc ăn lá ngón tự tử nhưng vì nghĩ đến cha cô lại từ Luận điểm 2 Mị có số phận bi thảm khi trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra- Mị chính là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi vốn tồn tại từ ngàn đời- Mị bị hành hạ về mặt thể xác+ Mị trở thành cỗ máy lao động không biết mệt, không biết nghỉ+ Mị bị đánh đập tàn nhẫn- Mị bị đầu độc, nhục mạ tinh thần+ Cúng trình ma - bị ràng buộc bởi sự hù dọa của thế lực thần quyền+ Sống trong một căn buồng kín mít - cuộc sống tù túng+ Vô tâm, dửng dưng, thờ ơ với nỗi đau của người khácc Luận điểm 3 Sức sống mãnh liệt trong Mị- Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân+ Nghe tiếng sáo và những âm thanh trong không gian xung quanh+ Nhẩm thầm lời bài hát+ Mị uống rượu để quên đi nỗi tủi nhục của mình+ Tâm hồn Mị hồi sinh và kí ức sống dậy những kỉ niệm tuổi trẻ, khát khao yêu thương trong Mị ùa về và Mị ý thức sâu sắc về thân phận tủi nhục, cay đắng+ Mị muốn được đi chơi, Mị sửa soạn đi chơi+ A Sử trói đứng Mị trong đêm tối. A Sử đã trói Mị, trói thể xác của Mị nhưng không thể trói được tâm hồn Mị- Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ+ Lúc đầu, Mị dửng dưng với A Phủ+ Nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ thương A Phủ và thương cho mình, thấy nhà Pá Tra sao ác thế+ Mị nảy ra ý định cắt dây cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi Mị sợ+ Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài=> Mị là một người con gái lặng lẽ nhưng vô cùng mạnh mẽ, hành động cởi trói cho A Phủ đã nói lên ý chí của Mị, muốn đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị tàn ác, mong cầu một cuộc sống tự do, bình Kết bài phân tích nhân vật Mị- Khái quát về nhân vật Mị Mị là hiện thân những đau khổ của người phụ nữ miền núi và người dân miền núi trước cách mạng; là hiện thân của sức sống tiềm tàng và sức mạnh vùng lên giải Cảm nhận, đánh giá của em Qua nhân vật, giúp chúng ta hiểu hơn về tài năng và tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài.>>> Hướng dẫn soạn bài Vợ chồng A Phủ giúp xây dựng ý cho bài văn phân tích nhân vật MịIII. Văn mẫu tham khảo phân tích nhân vật Mị1. Phân tích nhân vật Mị đại diện cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở miền núiTây Bắc là mảnh đất đã gây biết bao thương nhớ cho các nhà văn trong đó có Tô Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được ông sáng tác năm 1952 và in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng lên vùng cao Tây Bắc của nhà văn. Nổi bật trong truyện ngắn này là nhân vật Mị, người đã gây được nhiều ấn tượng, cảm xúc cho bạn là nhân vật chính trong phần mở đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đây là nhân vật tiêu biểu, đại diện cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở miền núi. Mị có hoàn cảnh thật đáng thương, bất hạnh. Cô được sinh ra trong một gia đình nghèo khổ. Vì không có tiền cưới vợ nên bố Mị đã vay tiền bố của thống lí Pá Tra, mỗi năm phải nộp lãi một nương ngô. Đến khi mẹ của Mị chết vẫn chưa trả hết số khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi kèn lá hay như thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị có sức hút, sức hấp dẫn như bông hoa rừng đầy hương sắc. Vẻ đẹp của cô gái người Mông khiến chàng trai nào cũng muốn có là cô gái yêu tự do, dám lên tiếng phản đối lệ tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ vật chất của người thân còn tồn tại trong cuộc sống của người dân Tây Bắc. Khi thống lí Pá Tra nói với bố Mị rằng “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho” thì Mị thẳng thắn trả lời “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Lời nói của Mị đã chứng tỏ cô là một người có nhận thức sâu sắc về cuộc sống, Mị chấp nhận làm nương ngô cả đời để trả nợ chứ không làm con dâu gạt nợ và sống cuộc sống mất tự do trong nhà thống bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị vô cùng đau đớn và phẫn uất “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị chuẩn bị sẵn lá ngón để tự tử nhưng nghĩ đến bố “Mị không đành lòng chết”. Hành động định tự tử của Mị nhìn bề ngoài là hành động tiêu cực nhưng thực chất lại thể hiện sự đấu tranh mãnh liệt đòi giải thoát kiếp trâu ngựa. Hành động ấy còn thể hiện thái độ không chấp nhận cuộc sống thực tại, không chấp nhận thân phận nô lệ của Mị. Nhưng thời gian trôi đi khiến sự phản kháng trong con người Mị không còn mạnh mẽ nữa. Cô được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của tác giả nên khiến câu chuyện khách quan và chân thực hơn. Hình ảnh người con gái ấy hiện lên qua các công việc “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối. Bất kể làm gì thì “cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.Mị gần như câm lặng và cam chịu số phận “Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”.. Gia đình thống lí Pá Tra “có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”, giàu có là vậy nhưng con dâu phải làm việc như thân trâu ngựa. Mị cũng tưởng mình là con trâu, con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”. Nhưng con trâu, con ngựa “làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ” còn Mị phải làm việc cả đêm lẫn ngày, không một phút nghỉ tay. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ ngô, hái củi, tước sợi đay hiện ra như một dòng chảy không bao giờ ngừng khiến Mị “lùi lũi như con rùa nơi trong xó cửa”.Dường như cuộc sống của người con dâu gạt nợ đã khiến cô trở nên câm lặng, “càng ngày Mị càng không nói”. Không những thế, Mị còn mất hết ý niệm về thời gian, không gian. Điều ấy được tác giả đặc tả qua chi tiết “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Và chính Mị cũng đã nghĩ rằng “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”.Ngỡ tưởng cô gái ấy tồn tại như cái xác không hồn trong nhà thống lí nhưng không khí của mùa xuân đã làm tâm hồn và lòng yêu đời của Mị trỗi dậy. Tiếng sáo rủ bạn đi chơi mang âm hưởng bồi hồi, tha thiết, rạo rực khiến Mị nhớ đến quá khứ, nhớ đến cuộc sống tự do của mình trước đây. Mị nhẩm thầm theo lời bài hát“Mày có có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu”.Tiếng sáo có sức quyến rũ đến lạ kì. Nó đưa Mị trở về sống với những cảm xúc của một thời tươi trẻ. Mị không còn “lùi lũi”, chịu đựng nữa. Dường như cô muốn thoát ra khỏi cái vỏ bọc để sống đúng là chính mình. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” rồi Mị say, “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về những ngày trước”. Trước đây, Mị đã từng là một cô gái thổi sáo giỏi, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.Không khí của những đêm tình mùa xuân tràn về khiến lòng Mị phơi phới trở lại và “đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ lắm và cũng muốn đi chơi như bao nhiêu người khác. Ý định muốn đi chơi của Mị đã trở thành hành động khi cô “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào ống đèn cho sáng” rồi “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Hành động ấy của Mị đã thể hiện sự hồi sinh trong tâm hồn, thể hiện một sức sống mãnh liệt mà bấy lâu nay bị những khổ cực đè nén khiến nó không có cơ hội được bộc lộ. Nhưng giữa lúc lòng yêu đời trỗi dậy mãnh liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập phũ phàng. A Sử biết Mị muốn đi chơi nên “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà”, A Sử “quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Trong không gian của bóng tối, Mị vẫn nghe thấy những âm thanh dìu dặt của tiếng sáo, nó “đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.A Sử có thể trói buộc Mị về thể xác nhưng không thể trói buộc được Mị về tâm hồn. Tiếng sáo da diết như mời gọi đã khiến “Mị vùng bước đi” nhưng Mị không thể cất bước vì “tay chân đau không cựa được”. Nỗi đau về thể xác khiến Mị quay về thực tại, Mị đau đớn, “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị đã ý thức được cuộc sống thực tại và xót xa cho số phận của bản thân một sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người, Mị đã tự giải thoát cho chính mình qua hành động cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài đến khu du kích Phiềng Sa. A Phủ là người đối đầu với A Sử - con trai thống lí Pá Tra trong lần A Sử cùng chúng bạn kéo vào làng chơi và dọa đánh bọn con trai lạ. Vì đấu tranh cho cái thiện, cho chính nghĩa mà A Phủ bị bắt làm nô lệ cho nhà thống nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ lại đêm mình bị A Sử trói đứng như thế. Từ thản nhiên, thờ ơ, Mị đã có sự đồng cảm với tình cảnh, thân phận của A Phủ. Suy cho cùng, cả hai người đều là những vật thế mạng cho món nợ của người thân hoặc của chính cấp thống trị ở miền núi đã lợi dụng lệ tục cổ hủ đó để bóc lột sức lao động của họ biến họ trở thành thân trâu ngựa làm giàu cho mình. Bằng tấm lòng thương người, Mị đã “cắt nút dây mây” và bảo A Phủ “Đi ngay”. Hành động ấy vô cùng táo bạo bởi nếu gia đình thống lí biết thì Mị sẽ là người bị trói tay vào chỗ của A vọng giải thoát bản thân và khát vọng về một cuộc sống tự do đã thôi thúc Mị bỏ trốn cùng A Phủ. Sức sống trong cô đã bùng lên mạnh mẽ để đấu tranh chống lại cường quyền, thần quyền và phụ quyền. Hành động cắt dây trói cho A Phủ cũng là hành động cắt dây trói cho chính mình, chấm dứt cuộc đời nô lệ, bị áp chế của thể nói, Mị là linh hồn của phần một trong truyện “Vợ chồng A Phủ”. Nhân vật này được Tô Hoài khắc họa bằng bút pháp cá thể hóa và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đây cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng làm nên sự thành công của tác phẩm.Nguồn Lớp văn thầy Nhật2. Phân tích nhân vật Mị hay nhất mẫu số 2Tô Hoài là nhà văn rất thành công trong những nhà văn thuộc nền văn xuôi hiện đại. Tác phẩm của ông thường viết về những vấn đề gần gũi thân quen trong cuộc sống thường ngày. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang lại những giá trị sâu sắc. Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh, nhưng có vẻ đẹp tâm hồn và có sức sống mãnh liệt, dám đứng lên đấu tranh tìm lại hạnh phúc cho vật Mị hiện lên trong cách giới thiệu của tác giả ở ngay đầu câu chuyện gợi lên cho người đọc một sự lôi cuốn lạ kì. Chỉ bằng vài câu chữ, tác giả đã cho người đọc hình dung ra được cuộc sống đầy đau khổ mà Mị đang phải hứng chịu trong nhà Pá Tra. "Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".Hình ảnh người con gái với vẻ mặt và ánh mắt vô hồn bên cạnh cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào "buồn rười rượi". Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm trước đó là một người con gái đẹp của núi rừng Tây Bắc, cô có tài có sắc, có một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương, có rất nhiều người yêu và cô cũng đã trao gửi tình yêu cho một người trai làng yêu cô tha số phận may mắn không đến với cô, người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Danh nghĩa là con dâu nhưng cô đã phải chịu mọi khổ cực đến tận cùng của một kẻ tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, "Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm" .Không những bị đày đọa về thể xác, Mị còn bị dày vò về một nỗi đau tinh thần không lối thoát. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng khổ cực và muốn giải thoát cho mình bằng cái chết, nhưng lại lo cho cha nên Mị đã cố sống. Khi cha Mị không còn nữa, thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ, như một đồ vật không cảm xúc. Muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước... cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà sống của Mị cứ thế lầm lũi trôi qua ngày này sang tháng khác, những tưởng con người thật sự của Mị đã chết đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người, có khao khát sống đến mãnh liệt. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình không khí mùa xuân của Hồng Ngài năm ấy đã làm trỗi dậy sức sống ở con người Mị. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, "uống ừng ực" rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi lãng quên thực tại nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay nhưng lại nhớ về ngày trước ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi..., và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người "Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau".Tiếng sáo thật có ý nghĩa bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay mình vào không khí náo nhiệt của mùa xuân, tâm hồn tưởng như đã chết của Mị dần được sưởi ấm, nó lướn dần và lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác "Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi". Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử bị A Sử trói vào cột nhưng Mị vẫn chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn sống le lói của Mị đã bùng phát lên thành hành động, đó là hành động Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng bị trói chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt "A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Câu văn như một mình chứng sự tê dại trong tâm hồn ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt "Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen". Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho người Mị lúc này đã tỉnh táo, Mị đã nhận thức được những đau khổ mà Mị đã phải chịu đựng và thương cho người có cùng cảnh ngộ như mình là A Phủ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình "Mình là đàn bà... chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết". Nhưng khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị càng tỉnh táo hơn và bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số nói rằng, nhà văn đã có sự am hiểu sâu sắc về cuộc song của con người Tây Bắc, có sự cảm thông sâu sắc đối với những người phụ nữ nơi đây, nhà văn mới có thể phát hiện ra cái vẻ đẹp nằm sâu trong tâm hồn người phụ nữ bất hạnh qua nhân vật Mị nhà văn đã thay toàn dân tố cáo cái thế lực phong kiến đã áp bức, bóc lột và chà đạp nên quyền sống cơ bản của con người. Cũng qua nhân vật ấy Tô Hoài đã ca ngợi khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng tự do hạnh phúc của những con người nghèo khổ ấy, đồng thời thể hiện sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, tình giai cấp của dân tộc Việt trong những khó khăn gian khảoNhững đề văn hay về Vợ chồng A Phủ điểm caoCác đề văn về nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ3. Phân tích nhân vật Mị - lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệtNhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét về văn chương của Tô Hoài “Văn chương của Tô Hoài thấm đậm chất Kẻ Chợ trong giọng điệu, cái nhìn, nhân vật, phong cảnh. Ông viết nhiều về Hà Nội, cả chuyện xưa và chuyện nay, đã đành. Ngay cả khi ông viết về miền núi, về các chuyện lịch sử, dã sử, về những chuyến đi nước ngoài thì thấp thoáng trong và ngoài trang sách của ông vẫn là tính cách và cốt cách của một nhà văn Kẻ Chợ hóm hỉnh, tinh quái, khôn ngoan, rành đời”.Kỳ thực, tôi rất cảm phục nhận định này khi nói về một tác giả mà bản thân mình rất yêu mến - Tô Hoài. Từ ký ức tuổi thơ với hình ảnh Dế mèn, cho đến khi trưởng thành được đọc “Vợ chồng A Phủ” tất cả những gì còn lại trong tôi chính là sự thú vị, sự chân thực, dí dỏm trong từng lời văn của ông. Đọc “Vợ chồng A Phủ”, được tìm hiểu về nhân vật Mị, ta càng thêm thấm thía nhận định mà Tô Hoài chia sẻ về đứa con tinh thần của mình “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.”Tô Hoài - nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với vốn am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau, tác giả này thường lựa chọn được những hình ảnh, từ ngữ rất phù hợp để đưa vào trong từng trang văn của mình. Tô Hoài sáng tác nhiều ở các mảng đề tài khác nhau, có thể kể tới như truyện cho thiếu nhi, truyện về Tây Bắc và viết cả về Hà Nội. Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi được tiếp xúc với người nghệ sĩ này đã trầm trồ thán phục rằng “Tô Hoài là nhà Hà Nội học” bởi những kiến thức mà ông biết không có trong bất cứ một cuốn sách nào, một thư viện nào. Sáng tác nhiều như vậy, nhưng nhà văn này lại dành một sự quan tâm đặc biệt cho hình ảnh của người lao động đặc biệt là đồng bào Tây như Tô Hoài tâm sự, vì mảnh đất miền Tây đã để thương để nhớ cho ông nhiều quá nên ông đã quyết định quay trở lại đây, trả món ân tình bằng một tập truyện “Tây Bắc” xuất sắc. “Vợ chồng A Phủ” là một trong số ba truyện ngắn in trong tập truyện này. Tác phẩm là thành quả đẹp của chuyến đi thực tế dài 8 tháng và năm 1952 cùng bộ đội. Thời gian ở đây, được sống, được làm việc, được tiếp xúc đã giúp cho ngòi bút của nhà văn nay có biết bao nhiêu cảm hứng để xây lên những áng văn đẹp và tình cho đời. Không quên sứ mệnh của một nhà văn, Tô Hoài nhìn thấy những con người vất vả, yêu câu chuyện mà họ kể lại viết thành những tác phẩm để đời. “Vợ chồng A Phủ” chính vì lý do đó mà đã thể hiện mạnh mẽ một trong những phẩm chất cao đẹp của người lao động - sức sống tiềm tàng. Điều này thật giống với nhận định Tô Hoài đã từng tâm sự “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.”Nhận định của nhà văn muốn đề cập tới hai yếu tố đối lập Một bên là sự đe dọa thường trực của cường quyền, bạo quyền, thần quyền; bên còn lại là số phận nhỏ bé của những con người lam lũ. Giữa một xã hội đầy những bất công, Tô Hoài lên tiếng thay cho đồng bào dân tộc thấp cổ bé họng, nhận định vừa mang tính chất tố cáo xã hội phong kiến mục ruỗng, vừa mang giá trị tôn vinh vẻ đẹp – sức sống tiềm tàng của con người. Trong cùng cực, đau thương họ vẫn nghĩa về sự sống, dám đấu tranh cho sự sống. Mị là nhân vật điển hình như giở từng trang văn của Tô Hoài, ta bắt gặp hình ảnh của nhân vật Mị xuất hiện thầm lặng bên những vật vô tri vô giác. Cách xuất hiện đó thật đặc biệt “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá, trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là sự xuất hiện rất khác lạ của một cô gái trẻ. Hình ảnh của một con người cô độc, âm thầm, gần như lẫn vào các sự vật vô tri cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa,… trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà quan Thống lí. Là con dâu của một gia đình quyền thế có “nhiều nương ngô, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”, vậy tại sao lúc nào cô ấy cũng buồn? Tác giả đã tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt người đọc cùng tìm hiểu số phận của nhân vật Mị trong là một cô gái có nhiều thiệt thòi nhưng sự thiệt thòi đó không khiến cô đánh mất những ước mơ của mình. Cô là con gái lớn trong một gia đình nghèo ở vùng cao Tây Bắc, mồ côi mẹ từ nhỏ, lớn lên trong vòng tay che chở của cha. Khi lớn lên, Mị trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, một bông hoa của núi rừng, đã làm say lòng bao chàng trai Tây Bắc “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị có tài thổi sáo bằng lá, thổi kèn lá hay như thổi sáo, khiến cho trai làng “ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Những tháng năm tuổi trẻ, Mị cũng đã có một tình yêu đẹp cho riêng mình. Là một cô gái toàn vẹn cả sắc lẫn tài như vậy, lẽ ra cô phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì món nợ truyền kiếp, món nợ tiền kiếp từ ngày cha mẹ mới lấy nhau để lại, Mị đã trở thành cô con dâu gạt nợ không công cho nhà thống A Sử - con trai nhà Thống lí lừa bắt Mị, buộc người con gái đẹp Tây Bắc trẻ trung thành cô con dâu gạt nợ không công cho nhà địa chủ. Ban đầu cô phản kháng “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị đã định ăn lá ngón tự tử. Trước khi chết cô đã về lạy cha, nhưng lời kêu van thống thiết của người cha già đã khiến Mị phải nuốt nỗi cay đắng, tủi nhục vào lòng, đành quay trở lại nhà Thống lí. Thương người cha già, Mị không còn ý định tự tử nữa. Hành động dám chết khi cảm thấy cuộc đời của mình không còn bất cứ ý niệm nào là một trong những biểu hiện của lòng ham sống vô tận. Thế nhưng, Mị lại không thể can đảm làm điều mình muốn làm. Người cha trước mặt Mị khiến cô biết mình chưa thể buông bỏ mọi chuyện khi chưa làm tròn chữ hiếu. Mị quay lại, chấp nhận cuộc sống làm thân trâu ngựa. Hành động dám sống ngay cả khi cuộc đời không còn ý niệm cũng là một điều đáng lưu ý khi tìm hiểu về nhân vật này. Sự sống có lẽ được nảy mầm từ đời của Mị sống với A Sử là những ngày vất vả, đau khổ. Cuộc sống của cô ngày càng đau khổ, ngày càng vất vả, nghiệt ngã. Mị đã trở thành nô lệ, bị chiếm đoạt sức lao động, nhan sắc và cuộc đời. Mị như một công cụ lao động cho nhà Thống lí Pá Tra. Cuộc sống của Mị gắn chặt với các sự vật vô tri. Càng ngày Mị càng ít nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bây giờ Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa vì đã quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống mà như đã chết, bởi cuộc sống chẳng còn nghĩa lí. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cái ác của bọn Thống lí đã giết chết phần tốt đẹp trong con người Mị. Mị bị đày đọa đến mức tinh thần phản kháng cũng dần tê thở dài của cô thể hiện thái độ buông xuôi, phó mặc cho số phận. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc. Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận và chịu đựng. Nhưng sự ê chề của kiếp sống nô lệ chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu sự cầm tù kéo dài về tinh thần. “Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay…”. Cô sống vô cảm, chai lì, không còn ý thức về khổ đau, thời gian, tình yêu, khát vọng và cuộc sống. Đã bao năm rồi, Mị không biết đến mùa xuân, không đi chơi tết. Đó là cuộc sống chết về tinh thần, sống như một cái xác không hồn ở chốn địa ngục, trần gian. Mị cứ sống như thế, thân phận của 1 cô con dâu gạt nợ không công, bị chà đạp về cả thể xác và tâm con dâu trong nhà Thống lí Pá Tra bị đày đọa, bóc lột sức lao động, cầm tù về tinh thần nhưng từ sâu trong lòng Mị vẫn ấp ủ một ngọn lửa khát vọng sống, tự do, chỉ chờ cơ hội là trỗi dậy mạnh mẽ. Sức sống tiềm tàng của Mị được ví như một mầm cây xanh non, chỉ đợi cơn mưa đi ngang qua sẽ bung nở thành cây đời xanh tươi. Và cây đời đó đã thực sự nảy mầm trong đêm tình mùa xuân. Sự hồi sinh của nhân vật Mị được tác giả miêu tả sâu sắc và tinh tế. Những yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lí nhân vật như khung cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, men rượu đã thức tỉnh tất cả cảm xúc của Mị căm ghét sự bất công, tàn bạo, khao khát một cuộc sống tự do, hạnh xuân đến với Hồng Ngài. Một mùa xuân hiện ra với màu sắc, âm thanh tiếng sáo, tiếng khèn,… Không khí nồng nàn, vui tươi của mùa xuân như được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết ở nhà Thống lí với tiếng chuông đánh ầm ĩ,… Năm nay, nghe được tiếng lòng của những người ham sống, nên có lễ đất trời đã có những biến chuyển khác thường. Mùa xuân đến sớm, gió rét dữ dội, khung cảnh trước mặt vừa sôi động, vừa bình yên. Mị cảm nhận được mùa xuân đang về, nhưng những cảm nhận ấy còn mơ hồ. Mị nghe thấy tiếng sáo xa xa, những đêm tình mùa xuân đã tới. Đột nhiên, Mị nhẩm theo lời bài hát của người đang thổi. Sau bao nhiêu năm câm lặng, Mị đã cất lên những lời thì thầm mùa xuân đầu tiên. "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị đang sống trong một trạng thái khác thường. Men rượu làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn cô thì từ từ thức tỉnh. Cái cách uống rượu “ực từng bát” khiến ta nghĩ như thể Mị đang cố uống cạn những cay đắng, uất hận của phần đời đã men của rượu đã đưa tâm hồn Mị đi theo tiếng sáo, nó khiến cô nhớ lại những kỉ niệm đẹp của thời con gái,… Người ta thường uống rượu để say, nhưng Mị uống rượu để nhớ. Nhớ lại quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi tình trạng sống mà như đã chết. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra mình còn trẻ lắm và cô muốn đi chơi. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, giờ đây trỗi dậy mạnh mẽ, không gì ngăn nổi. Xuất hiện trong tâm trí Mị đầu tiên là một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thật. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”.Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khao khát sống được khơi lên, nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với trạng thái vô nghĩa của thực tại. Mị đã ý thức được thực tại của mình. Đó là biểu hiện của lòng khát khao sống mãnh liệt. Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, mời gọi. Tiếng sáo là biểu tượng về khát vọng tình yêu. Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng Mị. Nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang cháy âm ỉ trong lòng cô gái khao khát tình yêu. Tiếng sáo đầy ám ảnh đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây tâm hồn Mị đang rập rờn tiếng sống trỗi dậy trong tâm hồn Mị như những đợt sóng ào ạt. Hành động Mị vào phòng lấy mỡ thắp nến cho sáng có nghĩa là Mị đang soi sáng tâm hồn mình để tìm lối thoát. Con người đích thực trong Mị đã sống lại, hòa lẫn với con người thực tại khiến tâm hồn cô chập chờn bất định. Dường như không đếm xỉa gì đến những xiềng xích tàn bạo của nhà Thống lí Pá Tra, Mị hành động như một con người tự do theo suy nghĩ, cảm xúc của mình. Cô quấn lại tóc, rút cái váy hoa trên vách, sửa soạn đi chơi Tết. Giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng nhất. A Sử đi chơi về, thấy Mị có ý định đi chơi xuân liền đánh Mị, trói đứng Mị vào cột nhà khiến cô không thể cúi, nghiêng đầu được. Sau đó thổi tắt ngọn đèn và đóng sầm cửa lại. Thằng A Sử nó muốn dìm Mị vào trong bóng tối, muốn dập tắt mong muốn hồi sinh của nhưng, A Sử chỉ trói được thể xác của Mị, nhưng không trói được tâm hồn của Mị. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng sáo và quên nỗi đau thể xác. Đến khi cô muốn “vùng bước đi” thì mới biết mình đang bị trói, tay chân đau nhức, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Nhưng vào khuya, cô lại quên ngay hiện tại và bồi hồi sống lại cùng tiếng sáo. Mị “lúc mê, lúc tỉnh”. Những ký ức tươi đẹp, những đau đớn của hiện tại. Mị khóc mà nước mắt chẳng thể lau. Cứ thế đến hết đêm cho đến khi trời tang tảng sáng lúc nào cũng không biết. Mị bàng hoàng tỉnh và thấy im ắng, không biết có chuyện gì xảy ra nữa. Mị chợt nhớ lại câu chuyện mà người ta hay kể ở nhà Thống lí Pá Tra, ngày xưa có một người vợ chết vì bị chồng trói trong nhà ba ngày. Nghĩ thế, Mị sợ lắm. Cô còn thử cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Đây là một trong những chi tiết thể hiện lòng ham sống mãnh liệt của người con gái này dù trong cảnh đói khổ, lay lắt, nhục Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị bên cạnh tình huống đầy bi kịch khát vọng sống mãnh liệt và hiện thực phũ phàng, nhưng sức sống của Mị lại càng dữ dội hơn. Nhà văn muốn khẳng định con người có sức sống mãnh liệt cho dù bị đày dọa, dẫm đạp đến thế nào. Thế rồi sau đêm mùa xuân, Mị thậm chí còn câm lặng hơn lúc trước, quay lại với cuộc sống đọa đầy của mình và chấp nhận nó như những điều bình thường. Chuyện sẽ không có gì khác nếu như đêm mùa đông đó không xảy ra. Quả thực, nói như nhà văn Tô Hoài, dẫu cho có đau đớn, nhục nhã thế nào, sức sống tiềm tàng của Mị vẫn luôn âm thầm trôi chảy, chỉ đợi cơ hội là bùng lên thành đám cháy lớn, giải phóng cho chính đông trên núi cao dài và lạnh, Mị chỉ có bếp lửa là người bạn duy nhất của mình. Mị có thói quen sưởi lửa hàng đêm dù rất nhiều lần thằng A Sử nó về nhìn thấy Mị sưởi lửa nó đã đạp Mị ngã dụi xuống đất. Nhưng Mị không bỏ được. Bếp lửa đối với người con gái này không chỉ là công cụ sưởi ấm mà quan trọng hơn đó còn là người bạn sưởi ấm tâm hồn của Mị trong những năm tháng đầy chai sạn này. Đêm hôm đó, cũng nhờ bếp lửa, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ - chàng trai gạt nợ cho nhà thống lý có thể ngày mai, ngày kia sẽ chết. Chỉ vì đánh A Sử để bảo vệ thanh niên làng, A Phủ trở thành người làm gạt nợ không công cho nhà Thống lý để trả hết số nợ sau một vụ xử kiện đầy oan uổng diễn ra tại nhà Thống lý. Từ khi đi ở trừ nợ cho nhà quan Thống lí Pá Tra, A Phủ làm “phăng phăng”, việc gì cũng làm tốt cả. Nhưng sơ ý, vì mải mê bẫy nhím nên hổ đã bắt mất một con bò. A Phủ không trốn tránh trách nhiệm mà đã dũng cảm nhận lỗi và xin Pá Tra cho mượn súng để đi bắn hổ nhưng bị từ chối. Suốt mấy ngày đêm, anh bị cha con Thống lí Pá Tra trói đứng vào một cây cột trong góc nhà chờ chết. Người con trai dũng mãnh ấy đã lâm vào tình cảnh tuyệt vọng. Nhưng cuộc sống của anh chưa hẳn đã dừng lại tại đây. A Phủ đã được Mị cắt dây cởi trói và cứu đầu chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị vẫn hoàn toàn vô cảm “thản nhiên ngồi thổi lửa, hơ tay”. Bởi ở nhà Thống lý, việc người bị trói cho đến chết là chuyện xảy ra hàng ngày. Cộng thêm với việc bản thân Mị trong hoàn cảnh lúc bấy giờ cũng đã vô cảm, Mị quá khổ, nên không thể nào thấu được cho nỗi khổ của người khác. Nhưng vào một đêm Mị tỉnh dậy sưởi lửa, cô nhìn thấy một dòng nước mắt chảy trên má A Phủ đen và xám lại. Đó là khoảnh khắc cô nhớ lại đêm tình mùa xuân của mình, khi cô cũng bị trói đứng, nước mắt lăn xuống mà không thể nào lau đi. Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy thương A Phủ, cảm nhận được sự tàn ác của nhà Thống lí Pá Tra. “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…”. “Chúng nó thật độc ác…”. “Người kia việc gì mà phải chết thế”. Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng cảnh A Phủ tự trốn thoát. Nghĩ thế, “Mị cũng không thấy sợ….”. Lòng thương người đã cho cô dũng cảm để cắt dây cởi trói cho A đầu, cô sợ mình phải đứng thế vào chỗ đó và “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Nhưng sức sống mãnh liệt đã khiến cô có đủ dũng cảm chạy theo A Phủ, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa và giác ngộ cách mạng. Hành động của Mị hoàn toàn là tự phát. Cô cởi trói cho A Phủ cũng chính là giải thoát cho cuộc đời mình. Đó là quy luật tất yếu của nhận thức “tức nước vỡ bờ”. Hành động cầm dao cắt đứt dây mây đầy dứt khoát, thể hiện cho lòng ham sống của cô gái này đã thực sự bùng cháy thành ngọn lửa. Sau vài giây ngây người ra, Mị đã quyết định chạy theo A Phủ lao vào bóng tối. Kể từ đây, những áp chế về cường quyền, bạo quyền và thần quyền đều ở lại. Mị muốn được giải thoát. Hành động giải thoát cho người nhưng cũng chính là giải thoát cho mình. Diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị quả thực rất đúng với nhận định của nhà văn Tô Hoài “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.”Mị là một cô gái trẻ đẹp, bị đẩy vào hoàn cảnh bi đát, phải sống triền miên trong đau khổ khiến cô dần tê liệt. Nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng về sức sống, nó đã thức dậy và giúp cô có hành động táo bạo giải thoát cho cuộc đời mình. Cô có đời sống nội tâm âm thầm nhưng mạnh mẽ. Trước những thế lực của tội ác cường quyền, bạo quyền và ngay cả những áp chế về thần quyền, con người ta vẫn sẵn sàng bước qua, hướng tới sự tự do, giải phóng cho chính cuộc đời của việc miêu tả số phận và cuộc đời của nhân vật Mị, cách kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn; ngôn ngữ hồn nhiên, giàu hình ảnh; nghệ thuật xây dựng nhân vật, phân tích tâm lí tinh tế, miêu tả phong tục tập quán đặc sắc… Nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại quãng đời tăm tối, tủi cực của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất, thực dân phong kiến. Từ đó làm sáng tỏ nhận định “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”. Mị và “Vợ chồng A Phủ” sẽ còn sống mãi trong trái tim độc giả như cách mà miền Tây và vẻ đẹp con người mảnh đất này đã sống mãi trong trái tim và tâm hồn của Tô bài văn phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ hay nhất4. Phân tích nhân vật Mị mẫu số 4Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông viết trên nhiều mảng đề tài và ở mảng nào Tô Hoài cũng chứng tỏ mình là bậc thầy trong miêu tả phong tục và nếp sinh hoạt của con người. Đằng sau những phong tục tập quán đó chúng ta còn thấy được số phận, điệu hồn, tính cách của mỗi người dân Việt Nam. Vợ chồng A Phủ có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Đằng sau những trang văn phong tục là cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ của Mị, nhưng đồng thời trong cô còn có sức sống tiềm tàng mãnh là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, bởi vậy sự xuất hiện của nhân vật được chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng. Mở đầu tác phẩm là sự xuất hiện của Mị gắn liền với những công việc lặp đi lặp lại, cùng với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi. Chi tiết này đã hé mở cho chúng ta thấy cả một thế giới nội tâm đầy đau khổ, bất hạnh. Rồi ngòi bút của Tô Hoài ngược về quá khứ, để cho người đọc thấy được một Mị - người con gái trẻ trung, xinh đẹp và rất tài sáo của Mị đã khiến cho biết bao chàng trai xao xuyến đi theo. Không chỉ vậy Mị còn là cô gái yêu lao động, yêu tự do, nhất định muốn lao động để trả nợ chứ không chịu làm con dâu gạt nợ. Ở Mị hội tụ đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ để được sống cuộc đời hạnh phúc song do các thế lực thần quyền chà đạp, đàn áp mà cuộc đời của cô vô cùng bất hạnh, đáng là hiện thân cho những đau khổ bất hạnh của người phụ nữ miền núi. Cô làm việc triền miên, hơn cả trâu ngựa trong nhà. Công việc trở thành nỗi ám ảnh khiến Mị không thể nghĩ đến bất cứ điều gì, Mị bị bóc lột nặng nề về thể xác. Không chỉ vậy cô còn bị giam hãm trong căn phòng nhỏ mà chỉ có một ô cửa sổ bé bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là chỉ vậy cô còn bị bóc lột về tinh thần, lấy A Phủ về nhưng chưa bao giờ Mị được làm người vợ thực sự, bởi A Sử vẫn đi lấy những người khác, sẵn sàng trói đứng Mị mà không hề thương tiếc. Ngoài ra, Mị còn bị áp chế về thần quyền, đây là thế lực vô hình như lại có sức áp chế vô cùng khủng khiếp. Khi Mị đã bị cúng trình ma, Mị tin rằng cả đời mình sẽ không thoát khỏi nơi đây nên Mị lầm lũi sống qua ngày, chờ cho đến lúc chết. Sự áp chết nặng nề cả về thể xác và tinh thần, từ cường quyền đến thần quyền đã đẩy Mị từ cô gái trẻ trung giàu sức sống trở thành một cô gái tội nghiệp, đáng thương. Điều đó là lời tố cáo đanh thép nhất với bọn cầm quyền phong kiến đương liệu Mị đã mất đi hoàn toàn sự phản kháng, mất đi hoàn toàn niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống. Thực tế chỉ cần có những chất xúc tác phù hợp, đúng thời điểm thì niềm tin đó sẽ bùng lên mãnh liệt và biến thành hành động. Ẩn sâu trong Mị vẫn có khát vọng sống, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A sống tiềm tàng của Mị trước hết thể hiện trong đêm tình mùa xuân. Mùa xuân là mùa của cây cối đâm trồi nảy lộc, mùa của yêu thương và nảy sinh sự sống. Lấy thời điểm này là hoàn toàn hợp lí. Tâm lí Mị chịu tác động mạnh mẽ bởi những màu sắc tươi đẹp, rực rỡ, những âm thanh tươi vui, rộn ràng của những đứa trẻ ngoài sân. Tất cả những yếu tố đó đã tác động tích cực đến tâm hồn quan trọng nhất là sự tác động của men rượu và tiếng sáo gọi bạn tình. Bản thân việc Mị uống rượu không lạ, vì ngày tết Mị cũng uống rượu như biết bao người khác. Nhưng cách uống lại hết sức bất thường, Mị uống ừng ực từng bát, như uống đi sự phẫn uất, nốt tủi hờn vào trong. Đồng thời chất men sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại tìm về quá khứ. Và quan trọng nhất là âm thanh tiếng sáo, tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, gợi nhắc Mị nhớ về một thời quá vãng tự do, hạnh phúc .Cùng với hơi men và tiếng sáo, Mị chối bỏ thực tại, tìm về với khóa khứ, Mị lịm đi và nhớ về ngày trước, quá khứ tươi đẹp. Mặc dù vậy Mị vẫn đi vào buồng mà không đi ra ngoài đi chơi như những người khác. Nhưng chính lúc ấy tiếng sáo lại xuất hiên đầy hữu ý, đã thôi thúc Mị, để Mị mạnh mẽ chối bỏ thực tại từ bỏ cuộc sống hiện tại. Mị bỏ ra ngoài, lấy ống mỡ sắn một miếng, thắp đèn lên cho động thắp đèn của Mị còn cho thấy Mị đang tự thắp sáng mơ ước, hi vọng cho cuộc đời của chính mình. Mị khao khát được đi chơi, được ra ngoài như mọi người, Mị đã lấy váy và chuẩn bị đi thì bị A Sử chặn đứng. Hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào cột nhà. Nhưng dù thể xác Mị bị trói nhưng tâm hồn cô đã phiêu diêu về một nơi khác, nơi cuộc sống hạnh phúc, và tự do của ngày diễn biến tâm lí hết sức phức tạp, nhưng vẫn vô cùng hợp lí, Mị đã có cuộc nổi loạn đầu tiên, sau rất nhiều năm sống trong giam hãm, tù đày, tưởng như đã mất hết hi vọng sống. Tuy chưa thể thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra nhưng cũng phần nào cho thấy sức sống tiềm tàng trong Mị, chỉ cần thời cơ thích hợp nó sẽ bùng lên mãnh như trong đêm tình mùa xuân Mị vẫn chưa thể tự cứu thoát được bản thân, thì trong đêm đông cứu A Phủ, với sự trợ lực, tác động từ đối tượng khác, Mị không chỉ giải cứu người khác mà còn giải cứu được chính mình. Bằng ngòi bút vô cùng tinh tế Tô Hoài đã miêu tả vô cùng khéo léo và tài hoa quá trình tâm lí phức tạp ấySau cuộc nổi loạn không thành lần trước, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt về ý thức, bởi vậy, nhìn A Phủ bị trói đứng Mị cũng không hề có bất cứ phản ứng gì. Mị hằng đêm đốt củi sưởi ấm cho bản thân, và trong một lần Mị thấy giọt nước mắt xám đen bò dài trên má A Phủ. Giọt nước mắt đó có tác động vô cùng mạnh đến tinh thần Mị. Nó đánh động, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ lại những đêm bản thân bị đánh, cũng từng khóc như cô bắt đầu xuất hiện sự cảm thương với người xung quanh “Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Đồng thời Mị thoát ra khỏi tình trạng mơ hồ, nhận thức rõ kẻ thù của mình “Chúng nó thật độc ác”. Đây là bước đầu tiên nhen nhóm lên trong Mị ý thức phản nhớ về hoàn cảnh mình, so sánh tình cảnh của bản than với A Phủ, “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi … Người kia việc gì mà phải chết thế”. Đồng thời bằng sự bản lĩnh, mạnh mẽ của mình, Mị đã lấy con dao cắt dây trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, bột phát xong lại rất logic, hợp lí, thể hiện tình yêu thương giữa con người với con cuộc nổi loạn lần thứ nhất giải cứu cho A Phủ, Mị thực hiện cuộc nổi loạn lần thứ hai ngay sau đó, để giải cứu cho chính mình. Mị không chỉ cắt đứt sợi dây hữu hình đang trói buộc, giam cầm một người con trai khỏe mạnh thoát khỏi vòng nô lệ, mà còn cắt đứt sợi dây vô hình trong tư tưởng, tinh thần đã bị nô lệ hóa của mình, đã trói buộc Mị trong một khoảng thời gian dài. Đêm tình mùa xuân nếu như mới khơi dậy khát vọng hạnh phúc, yêu thương thì đến đêm đông cứu A Phủ đã làm sáng lên khát vọng được tự do ở con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khắc họa chân thực, rõ nét diễn biến tâm lí, những cung bậc cảm xúc của Mị trong những quá trình tâm lí khác nhau. Tác phẩm cũng làm sáng lên tinh thần nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài, cảm thương cho số phận bất hạnh của nhân vật, nâng niu trân trọng những khát vọng, mơ ước của họ. Đồng thời lên án, tố cáo bọn phong kiến miền núi chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con Phân tích nhân vật Mị ngắn gọn đủ ý mẫu số 4Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết gần gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có sức ám ảnh đối với người Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng nhưng đầy ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài đã rất khéo léo khi gợi tả hình ảnh của Mị qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó. Một sự đối lập đến đau lòng giữa căn nhà rộng lớn của thống lý và sự lầm lũi, côi cút của người con gái bí hiểm đó. Một cô gái chịu sự dày vò về tinh thần, nhưng dường như lại có sức mạnh, nghị lực phi thường đang được nhen nhóm trong lòng của vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng cuộc sống của Mị sẽ sung sướng, hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mị với nhà thống lí đã khiến cho cuộc đời cô rơi vào bế tắc và tuyệt vọng như bây giờ. Thương cha, thương cho thân phận hẩm hiu của mình mà Mị đành lặng lẽ về làm dâu nhà thống Lý trong tủi nhục và đau Hoài đã diễn tả cuộc sống như chết rồi của Mị tại nhà thống Lý, một cuộc sống cơ cực, không khác gì thân trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mị lại bị đối xử không khác gì nô lệ, thậm chí thân trâu ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở nhà này vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm”. Bị đày đọa về thể xác và tinh thần khiến cho Mị ngày càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyệt sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng thái lầm lũi, một kẻ sống lặng câm y hệt “một con rùa trong xó cửa, căn phòng chỉ có một lỗ sáng to bằng bàn tay”. Căn phòng đó giống như địa ngục trần gian, giam giữ cuộc đời Mị, khiến cho cuộc đời một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chôn vùi nơi đây. Thống lí Pá Tra là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hà khắc, hủ tục, đẩy con người vào bước đường cùng không thương tiếc. Những người nông dân thấp cổ bé họng không biết kêu than ai, chỉ biết chấp nhận và chịu có lúc Mị muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình nhưng nghĩ đến cảnh người cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực. Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mị dường như đã không còn. Mị chấp nhận sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết. Bên trong Mị vẫn còn tiềm ẩn sức sống rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài khiến cho chính người đọc cũng cảm thấy thích thú. Nó dường như là đòn bẩy để khơi gợi lên niềm tin và nghị lực trong cuộc sống. Mị đã lén uống rượu, trong cơn say, Mị đã ý thức được bản thân mình muốn gì “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày tết vẫn đi chơi. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn ở với nhau”. Lúc ấy Mị đã ý thức được những khát khao trong lòng mình cháy bỏng như thế nào và tiếng sáo ngoài kia là một trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm đẹp một thời Mị từng chính hành động này của Mị đã khiến cho A Sử biết được, hắn trói Mị vào cột và bỏ đó đi chơi. Mị vẫn đang lâng lâng trong hơi men rượu, và ký ức của cô lại ùa về dữ dội. Tuy nhiên thực tại đã kéo Mị lại với những gì mà Mị đang đối mặt đau đớn và tủi nhục, khắp mình mẩy đau nhiên có thể nói cảnh tượng Mị cởi trói cho A Phủ mới là cảnh tượng khắc họa cực kỳ sắc nét và chân thực tâm trạng, khát khao của Mị. Mị đã vùng lên đấu tranh, vùng lên đòi hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ đêm hôm ấy đã đánh thức tình cảm, sự bùng cháy trong trái tim của Mị “Đêm ấy A Phủ khóc, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen”. Giọt nước mắt ấy đã khiến thay đổi cuộc đời Mị về tiết Mị cởi trói cho A Phủ và quyết định chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ về tinh thần. Sự đè nén bấy lâu nay trong lòng Mị đã được bứt phá và giải tỏa ra. Mị đã có thể tự lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mị tự đấu tranh, Mị không thể mãi chịu cảnh bị người ta hành hạ, đè nén. Đây chính là sự bứt phá trong con người của Mị. Đây cũng chính là sự thành công của Tô Hoài khi khắc họa hình tượng nhân vật này.“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt hình tượng nhân vật Mị để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc Phân tích nhân vật Mị mẫu số 5Là một nhà văn gắn bó thân thuộc với nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán của nhiều vùng miền cùng vốn ngôn ngữ phong phú, lời văn giàu hình ảnh, Tô Hoài đã lưu lại dấu ấn riêng của mình trong trái tim bạn đọc các thế hệ. “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn nổi bật trong kho tàng văn chương đồ sộ của nhà văn. Trong truyện, hình tượng nhân vật Mị là một nét đặc sắc đánh dấu sự tinh tế và tài hoa nơi ngòi bút Tô văn Tô Hoài từng chia sẻ “Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công tác từ Tà Sùa sang Phù Yên Sơn La. Ở Tà Sùa tôi gặp một cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống của họ, tức khoảng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên đán của ta một tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang bản khác. Ăn tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh, cuộc đời chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ đi chạy trốn nơi khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết của tôi về người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ dần. Và tôi bắt tay vào viết”. Có lẽ chính bởi những trải nghiệm khi được tiếp xúc với một hình mẫu thực cùng với tài năng, vốn hiểu biết về phong tục, lối sống người vùng cao mà nhà văn Tô Hoài đã chắp bút viết nên một tác phẩm xuất sắc. Hình tượng nhân vật Mị nhà văn xây dựng trong truyện đã để lại rất nhiều ấn tượng, nghĩ suy trong lòng độc tượng nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài xây dựng trước hết là một cô gái với những phẩm chất tốt đẹp đáng trân trọng. Đó là một cô gái người Mèo đang độ trẻ trung, hồn nhiên, được nhiều chàng trai ngày ngày đi theo bởi tài thổi sáo rồi thì “thổi lá cũng hay như thổi sáo” làm biết bao người mê say. Đó là một cô gái đã từng được yêu, từng yêu, luôn mang trong mình trái tim cháy bỏng yêu thương, hạnh phúc. Cô gái ấy cũng vô cùng hiếu thảo với mẹ cha, chăm chỉ làm lụng cũng như ý thức rõ được giá trị của một cuộc sống tự do. Mị sẵn sàng xin cha làm lụng trên nương ngô để trả nợ thay, để không phải về làm dâu nhà thống lí Pá Tra bởi Mị hiểu rằng về đó đồng nghĩa với việc sa chân vào chốn tù đày, phải sống cuộc sống tù túng, mang danh con dâu nhà giàu nhưng phận tôi đòi hèn cạnh đó, nhân vật Mị trong truyện còn hiện lên với hình ảnh là một nạn nhân của áp bức bất công, của thế lực phong kiến lộng quyền. Nhiều người nhìn Mị mà ghen tị vì được làm dâu con nhà giàu lắm của nhiều nương ở bản, nhưng thực tế, cuộc sống của Mị chốn nhà quan chẳng hề dễ dàng và hạnh phúc. Là con dâu gạt nợ, ngày ngày Mị bị bóc lột sức lao động, quần quật làm việc suốt ngày đêm đến cái ngưỡng nhiều lúc chính Mị còn cảm tưởng như mình chẳng bằng thân trâu, thân ngựa ngoài kia, rằng “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”. Dần dần, sống quá lâu trong cái khổ nên Mị quen khổ rồi, thân xác, tâm hồn ấy đã dần trở nên chai sạn với nỗi đau, với cực khổ đọa đày. Từ lúc nào mà Mị bỗng sống cuộc sống lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa”.Dẫu cho cuộc sống có bộn bề trăm nỗi khổ đau, ở nhân vật Mị ta vẫn bắt gặp một sức sống tiềm tàng, một khát khao sống, khát khao tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Khi bất ngờ trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí, bị A Sử bắt về làm vợ, Mị đã từng có ý định ăn lá ngón như là một cách để tự giải thoát mình. Trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống đất trời rạo rực ngoài kia, không khí xuân tràn lên cuộc sống muôn người dường như phần nào đã đánh thức tâm hồn Mị khỏi những tháng ngày bị vùi mình trong đau khổ. Mị nhẩm thầm theo lời bài hát, trong thoáng chốc tâm hồn ấy như được trở về với thời thanh xuân tươi trẻ, nồng nhiệt, với thời được sống tự do, hạnh phúc. Ý thức được giá trị của bản thân, của sự sống, Mị “thấy phơi phới trở lại” và rằng “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Khi bị A Sử trói không cho đi chơi, tâm hồn Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo ngoài kia, trong những cuộc chơi náo nức, rộn ràng. Và khát khao hạnh phúc, khát khao tự do trở nên mãnh liệt nhất khi Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ và sau đó chạy bỏ trốn theo A từng trang truyện “Vợ chồng A Phủ”, hình ảnh nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài khắc họa chân thực, sống động và qua số phận, nét đẹp tâm hồn ấy, ta cảm nhận được những thông điệp, những cảm xúc nghĩ suy sâu sắc mà nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc để từ đó thêm trân trọng tác phẩm và trân quý tài năng, sự tài hoa tinh tế của tác giả» Tham khảo thêmPhân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuânCảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị trong Vợ chồng A PhủIV. Kiến thức bổ sung về nhân vật Mị1. Nhà văn Tô Hoài nói về nhân vật MịKhông phải là Mị không bao giờ nhớ đến “con người tự do” của mình nữa, mà cái chính là không có một tác nhân nào gợi cho Mị nhớ đến điều đó. Đời sống tủi nhục, mỏi mòn đã hủy hoại Mị, cô ngày càng bị thu hẹp lại trong cái xó buồn bã, nhẫn nhịn “mỗi ngày Mị càng không nói, lầm lũi như con rùa nuôi trong xó nhà”. Mị là con rùa, là tù nhân. Ở buồng nơi Mị nằm chỉ có một chiếc cửa sổ nhỏ “lỗ vuông vuông bằng bàn tay”. Trong căn buồng đó, Mị được chốc lát một mình, vậy cô có thể suy nghĩ, có thể nhớ lại quá khứ lắm chứ. Nhưng không. Cái cửa sổ đó quá bé, và lúc này nhìn ra Mị cũng chỉ có thể thấy “trăng trắng, không biết là sương hay nắng”. Đấy là cái mờ mịt của tâm hồn, của số kiếp Mị. Chỉ có chết đi Mị mới thôi nhìn thấy cái mờ mịt ở nơi cái lỗ vuông kia. Như vậy rõ ràng đời sống tủi cực và tăm tối đã lấn át và che giấu đi con người thật của Mị, con người trẻ trung, ham yêu, ham sống ngày trước, đến nỗi Mị cũng không nhận ra. Mị là cô gái có cá tính, nhưng thời gian và khổ hạnh ở nhà Pá Tra đã làm cá tính ấy không phải bị mài mòn mà bị nhấn chìm hẳn. Đó là sự tha hóa, vào thời Mị, là sự tha hóa do xã Một số nhận định về nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ- "Tấm lòng yêu thương của nhà văn vẫn nhận ra bên trong hình ảnh của một con rùa nuôi trong xó cửa kia, đang còn một con người". Đỗ Kim Hồi- "Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sự sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt". Tô Hoài- “Mị là sự phản ánh số phận đau khổ bất hạnh của người nông dân nhất là người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám”- "Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một thành công của Tô Hoài trong việc xây dựng con người thức tỉnh".- “Mị là sự phản ánh số phận đau khổ bất hạnh của người nông dân nhất là người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám”- “Thắp sáng ngọn lửa của khát vọng sống, Tô Hoài cũng làm bừng sáng giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm”.3. Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật MịChi tiết sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ>>> Xem thêm Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ các dạng đề khác do Đọc tài liệu tổng hợp và biên soạn. Trên đây là gợi ý cách làm cùng các bài văn mẫu chọn lọc hay phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mà Đọc tài liệu biên soạn và tổng hợp. Ngoài ra, các bạn có thể tìm đọc thêm nhiều bài văn mẫu hay lớp 12 khác theo chương trình học Ngữ Văn 12 tại

mị và a phủ